Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

TRAO ĐỔI XUNG QUANH TRUYỆN KIỀU - PHẠM THUẬN THÀNH









                 CHUNG LÀ VỢ,

                                 CHẠ LÀ CHỒNG?

                               
                                                       NV PHẠM THUẬN THÀNH

    Truyện Kiều ngay từ khi mới ra đời đã được nhiều danh sĩ bình giá bằng nhiều hình thức khác nhau. Việc phổ biến tác phẩm bằng cách viết tay và in khắc cũng liên tục được tiến hành. Những năm gần đây, người quan tâm bình chú và công bố cách phiên âm văn bản Kiều theo cách riêng càng nhiều hơn. Ai cũng đinh ninh việc mình làm là đưa văn bản Kiều về gần hơn với nguyên bản của Nguyễn Du. Phải thừa nhận rằng, việc làm ấy có thành tựu đến đâu chăng nữa thì nội rất nhiều người tâm huyết bỏ công sức đọc, tra cứu, đưa ra nhận định riêng và công bố văn bản mới cũng đủ nói lên sức sống mãnh liệt của kiệt tác dân tộc. Trong khi chưa tìm thấy văn bản của chính Nguyễn Du thì mọi văn bản đều được chấp nhận nhưng cũng đều chưa được coi là nguyên bản. Có lẽ điều này đã được các nhà Kiều học nhận thấy nên mới đây Hội Kiều học Việt Nam đã cử ra tiểu ban nhất thống Truyện Kiều. Các thành viên tiểu ban sẽ tập hợp tất cả các văn bản Truyện Kiều rồi bàn bạc các chỗ khác biệt để chọn ra  điểm chung, từ đó cả nước sẽ dùng văn bản thống nhất này. Đây là cách làm mang tính khả quan của các nhà Kiều học, nếu được công chứng của Quốc hội hoặc một uỷ ban của Quốc hội thì nước ta sẽ có văn bản Kiều thống nhất.
   Tuy nhiên việc nhất thống Truyện Kiều còn rất nhiều gian nan. Trước hết ở kinh phí hoạt động cho tiểu ban. Thứ đến số thành viên của tiểu ban liệu đã đủ đại diện cho các quan niệm khác nhau chưa và có tính pháp lí chưa. Một điều mấu chốt nữa là liệu có tìm ra được tiếng nói chung hay không. Xin đơn cử một ý kiến riêng của nhà Kiều học Bùi Thiết công bố trong văn bản Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn học 2004 về từ “chạ”: “Chạ: Âm cổ, để chỉ trai tráng, đàn ông. Khi đi với Chung, có cặp Chung Chạ, nghĩa thường hiện nay hiểu là sự chung chạ, câu 2773: “Một nhà chung chạ sớm trưa”. Ngoài ra Chung Chạ còn có nghĩa khác, cũng rất cổ là để chỉ vợ chồng: vợ là chung, chồng là chạ. Câu 958: Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi, ở đây nghĩa như là vợ chồng, ý nói Kiều đã là vợ của Mã Giám Sinh. Trong ngôn ngữ dân gian có câu: chồng chung vợ chạ (nghĩa là chồng vợ, vợ chồng)” (Trang 12 - 13, Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn học 2004, văn bản do Bùi Thiết tuyển chọn và đọc hơn 130 âm cổ đầu thế kỉ 19).
   Nhà Kiều học Bùi Thiết trong công trình nghiên cứu của mình đã đưa ra một phát kiến giật mình thiên hạ khi công bố âm Việt cổ chung nghĩa là vợ, chạ nghĩa là chồng. Tuy nhiên việc công bố mà không có dẫn chứng minh hoạ khiến người ta không khỏi nghi ngờ tính võ đoán cá nhân của Bùi Thiết.
   Một là, giả sử năm cuối cùng của đầu thế kỉ 19 là năm 1850 và năm Bùi Thiết công bố tác phẩm 2004 khi ông mới lên 1 tuổi thì Bùi Thiết cũng đã 155 tuổi. Thời điểm năm 2004 kỉ lục thế giới về sống lâu cũng chưa đến 150 tuổi và không thuộc về Việt Nam. Vậy Bùi Thiết làm gì có sống ở đầu thế kỉ 19 đâu mà biết tiếng Việt cổ chung nghĩa là vợ, chạ nghĩa là chồng.
   Thứ hai, đã không phải là người trực tiếp sống và dùng ngôn ngữ cổ thì chỉ có thể nghiên cứu ngôn ngữ cổ qua văn bản thời đó để lại. Số lượng văn bản cổ đã được phiên ra chữ quốc ngữ và in ấn khá nhiều như ca dao tục ngữ, thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, các truyện thơ của Hoàng Sĩ Khải, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm và nhiều tác phẩm khuyết danh khác. Đã có nhà nghiên cứu nào phát hiện ra tiếng Việt cổ chung nghĩa là vợ, chạ nghĩa là chồng chưa. Ngay trong thơ Hồ Xuân Hương, người sống cùng thời với Nguyễn Du cũng có câu “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Theo Bùi Thiết giảng nghĩa thì kiếp lấy chồng chung là kiếp lấy chồng vợ (chung là vợ) thì khó hiểu quá. Lấy chồng vợ là loại chồng gì đây. Và kẻ đắp chăn bông là ai, kẻ lạnh lùng là ai. Còn người Việt bình dân nào mà chả hiểu kiếp lấy chồng chung là ít nhất phải có hai người vợ chung một người chồng, tức cảnh vợ cả vợ lẽ, nên mới có người được chồng yêu (đắp chăn bông) còn người kia phải nằm không (kẻ lạnh lùng) vì trên thực tế người chống khó và không thể yêu hai người vợ cùng một lúc được. Và ngay văn bản này người Việt cổ đã dùng từ chồng trong quan hệ vợ chồng rồi chứ đâu chờ đến người Việt sau thế kỉ 19 thông minh hơn mới sáng tạo ra từ chồng và vợ dùng thay cho từ cổ trước đó.
   Thứ ba, ngay trong văn bản Kiều cũng có câu dùng từ vợ và từ chồng rồi, đó là câu “Sống làm vợ khắp người ta/Thác xuống âm phủ làm ma không chồng”. Ca dao cổ có câu “Bây giờ chồng thấp vợ cao/Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Nghĩa là đầu thế kỉ 19 người Việt đã dùng phổ biến từ chồng và vợ rồi và những từ khác để chỉ thay thế như từ nhà, bà xã, ông xã… cũng có nhưng các từ chung chạ thì không hề có.
   Thứ tư, Bùi Thiết không hiểu một cách tạo từ mang nghĩa khái quát trong ngôn ngữ Việt: dùng một từ thông dụng với một từ cổ đồng nghĩa. Ví dụ: xe cộ là chỉ các loại xe nói chung, chim chóc là chỉ các loại chim nói chung, tre pheo là chỉ các loại tre nói chung, đất đai là chỉ các loại đất nói chung… Vậy chồng chạ, vợ chung trong tiếng Việt làm gì có từ này. Mà từ chồng chung, vợ chạ cũng không có nét nghĩa khái quát này mà mang nét nghĩa khác sẽ phân tích sau.
   Theo sách Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học soạn, Hoàng Phê chủ biên (Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học in năm 2004) giải nghĩa ba từ chạ, chung và chung chạ như sau:
   Chạ (trang 131):
   I.d. Xóm thời xưa. Chiềng làng chiềng chạ. Thượng hạ tây đông… (tiếng rao mõ ngày xưa).
   Xin dẫn thêm: ở vùng đồng bằng Bắc Bộ còn duy trì lệ kết chạ giữa hai làng khác nhau, trong đó có một làng là chạ anh, một làng là chạ em. Vì thế việc chung giữa hai làng sẽ không còn là việc riêng của từng làng kiểu “Thánh làng nào làng ấy thờ” nữa, do đó từ chạ trong kết hợp với từ chung có nét nghĩa mới là lẫn lộn, bừa bãi.
   II.t (id; kết hợp hạn chế). Lẫn lộn, bừa bãi. Ở chạ. Ăn chung ở chạ.
   Chung (trang 183):
   I.t. 1, Thuộc về mọi người, mọi vật, có liên quan đến tất cả, phân biệt với riêng. 2, Có tính chất bao quát, gồm cả cái chính, cái cơ bản. 3, (Thường dùng phụ cho đg.) Cùng với nhau, chứ không phải người nào người ấy tách riêng ra.
   IIđg. 1, Cùng có với nhau. 2, Góp lại với nhau.
   Chung chạ (trang 131):
   Đg. (hoặc t.): 1, Chung với nhau trong sinh hoạt đến mức không còn phân biệt cái gì là riêng nữa.
   2, Sống chung với nhau như vợ chồng.
   Đối chiếu nghĩa của ba từ chạ, chung, chung chạ theo sách Từ điển tiếng Việt thì câu Kiều 2733 và câu Kiều 958 mà Bùi Thiết đã dẫn thì rất rõ ràng và ai cũng hiểu như vậy: Sống chung với nhau như vợ chồng. Với kiểu võ đoán cá nhân như nhà Kiều học Bùi Thiết thì biết đến bao giờ mới có được một văn bản Kiều thống nhất đây.

-------

Phạm Thuận Thành
Hội viên Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
Hội viên sáng lập Hội Kiều học Việt Nam
Thường Vũ - An Bình - Thuận Thành - Bắc Ninh
02413.782.355 - 0168.5300.803
  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét