Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

CHÙM THƠ VŨ LẬP (CHLB ĐỨC)




                                                               


VŨ LẬP
(CHLB ĐỨC)
 
Quê: Yên Hoà, Yên Mỹ, Hưng Yên; nhiều năm ở Bắc Giang, Hà Nội; hiện sống tại CHLB Đức.  Đã xuất bản các tập thơ: Hương quỳnh - 2004, Tháng Giêng (Hội Nhà văn- 2005), Vạt thương vạt nhớ (Hội Nhà văn- 2005), Tuyết bỏng (Văn học- 2010).

Được Giải Ba (không có Giải Nhất), về thơ TT trong cuộc thi thơ Tứ Tuyệt Mở Rộng, Tạp chí Kiến thức ngày nay & Công ty Hữu nghị tổ chức- 2009.    


CHIỀU THU

Mây chiều thu soi hồ lóng lánh
Đàn thiên nga khoe cánh trắng dài
Từng đôi một giỡn sóng tập bay

Liễu đung đưa như dáng tóc ai
Vờn vai thon se se gió nhẹ
Sắc thu vàng ai thả trang thơ

Lá lao xao như tình  trong gió
Chỗ ta ngồi cỏ cũng ngẩn ngơ.

                    Leipzig Đức 31.8.2011

 THU ĐẾN

Viễn xứ Thu vừa đến
Ánh lên gam sắc vàng
Hướng dương cười với cúc
Để tình ai xốn xang

Gửi câu thơ lên trăng
Gió nhẹ vờn cành liễu
Tóc bạch kim sóng xô
Thiên nga giỡn trên hồ
Trăng nghiêng nghiêng ánh bạc
Người xưa lạc nơi nao
Sương giăng vây cái nhớ
Buộc mây tự thuở nào?

Triền đê nhãn trĩu quả
Căng chật dòng sông xanh
Chỗ ta ngồi cỏ mật
Còn thơm lời em anh?   

             Leipzig Đức 8.9.2011

 KHÚC TỰ DU

Ôsin cao cấp ở xứ người
đứa đòi sữa mẹ đứa đòi chơi
cháo ninh chưa chín chuông reo cửa
chạy ra ta vẫn "mỉm môi cười"

Cuối thu tơi tả lá vàng rơi
theo chiều gió cuốn tuyết tơi bời
ai bảo ông quí toàn "đồ ngoại"
ai sẻ cùng ông nỗi đau đời !

Mai kia chúng nó quản được nhau
thảnh thơi ta sống, mặc ai giầu
thơ rượu cùng Trăng xem Quỳnh nở
đời mà như thế biết chi sầu !

             Leipzig , Đức 14.11.2010



  
                           

CHÙM THƠ YẾN LAN



                                                                               
     NHÀ THƠ YẾN LAN        
YẾN LAN
(1916 - 1998)


Có nhiều nhà thơ lừng danh về tứ tuyệt: 
Yến Lan, Chế Lan Viên, Ngô Quân Miện…
Yến Lan là một Thi tướng? 
ĐTTT giới thiệu chùm thơ của thi sĩ Yến Lan...  



                                                                 


 
Quan họ

Rạo rực bờ tre, lá trúc tre
Ôi, người ơi người ở đừng về
Một câu quan họ mành hơn chỉ
Xuyên suốt tâm hồn mọi nẻo quê.  

Cầm chân hoa

Em đến xin hồng, hồng mới nụ
Đêm nay hồng nở, bóng em xa
Cầm em bữa trước, em không ở
Giờ biết làm sao cầm được hoa?


                                                             


 
            Tàu ngang quê cũ

Khói quyện đầu ô, nửa xóm nhoà
Tàu dừng đổ khách sắp rời ga
Đồng hương kẻ xuống người ra đón
Mình suốt đời đi chửa tới nhà…





Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

THƠ TRỊNH KIM HIỀN





                                             
                                                                    



                         TRỊNH KIM HIỀN

                 
Quê: Lục Ngạn, Bắc Giang.
Nhiều năm trong ngành địa chất, tại Tây Nguyên.
Hiện sống và viết ở Quý Sơn, Lục Ngạn.
Hội viên Hội VHNT Bắc Giang, Hội VHNT các DTTS Việt Nam.
Đã xuất bản các tập thơ:
Mưa đền cây, Thong thả xuyên rừng, Quyền của lá, Yêu như nút lạt ...

Với Hà Nội


Sông Hồng góp một Hồ Tây
Ba Vì góp ngọn
Mỗi người góp cho Hà Nội
Một lưỡi gươm thần tôi đáy nước Hồ Gươm
Tôi từ thăm thẳm tâm linh

Tôi trong đồng vọng

Lý Thái Tổ nhìn ra thắng địa
Người góp cho Hà Nội
           một thủ đô ngàn thủa dáng rống bay
Cả thế đất nắng mưa hình chữ S

Góp vào hào khí, góp linh thiêng

Hà Nội trong ta
Mà ngoài bốn biển…
Cho Hà Nội cả những người chưa đến
Bởi ai cũng đều có một  Việt Nam riêng 

Cấm Sơn

Lửng lơ giữa đất và trời
Cấm Sơn vỗ sóng
Vỗ xum xuê bản nghèo xóm vắng
Vỗ xanh lúa đồng

Cấm Sơn bốn mùa lo việc Cấm Sơn
Thuyền ngược thuyền xuôi
                    mặc thuyền xuôi ngược
Ngày mưa thì trầm ngày nắng thì trong
Vẫn đủ rong rêu phần tôm phần cá

Cấm sơn có lúc mặt gương lặng tờ
Lặng ngắt lặng im cho người soi bóng
Bao giờ có ai bắc cầu giải yếm

Tôi xin về cùng 
        bắc giữa Cấm Sơn. 
                                                                                    



Mỵ Châu


Nỏ thần tiên tổ cất đâu

Chỉ còn đây một Mỵ Châu đắng lòng

Ngàn năm tưởng chuyện vừa xong

Tình không có tội, tội trong cõi người

Đường xưa bước rụng bước rời

Từng rơi lông ngỗng hay rơi những gì

Bao giờ bớt nỗi sầu bi

Phụ vương hết giận, Kim Quy rút lời

Bao giờ nữa

Mỵ Châu ơi!       


Hoàng Cầm



Không là tướng nhưng ông làm tướng
Tướng của những ngọn khói ngoằn ngoèo
Không làm thơ nhưng ông là nhà thơ
Nhà thơ của những vầng lửa ấm

Mùa đã lại nghiêng về miền sương khói
Nơi Hoàng Cầm yên nghỉ giữa ngàn thông
Từ cát bụi trở về cát bụi
Lặng lẽ ông nằm tựa Tam Đảo vào đông

Trăm ngàn nén nhang đã thắp
Có ngọn nào hời hợt với ông chăng
Trong ngàn người từng viếng mộ
Ai giờ mới thực biết Hoàng Cầm

Có lẽ Hoàng Cầm không để ý
Chỉ biết giặc tan thì về quê
Thong dong vác cày giong trâu cũng sướng
Dăm chuyện nhớ quên nào nghĩa gì

Hoàng Cầm chỉ có một tâm nguyện
Tâm nguyện máu xương cho đời đời
Không đâu cần bếp Hoàng Cầm nữa
Lửa cứ hồng lên, khói thẳng trời  ./.




                             MỘT CẢNH Ở LỤC NGẠN                              



Thiền

Bạn tôi
Sáng sáng ngồi thiền
Quên người tình
Quên vợ quên con
Quên mưa quên nắng
Quên cay đắng ngọt bùi

Bạn tôi ngồi thiền
Quên cả mình đang sống…
 
Bạn nói thiền lạ lùng sao
Thiền nghĩa là Quên đấy  .

Rồi bạn hỏi tôi
- Cậu có thiền không?

Câu hỏi bất ngờ làm tôi lúng túng


 Tôi ở giữa rừng
Tôi sống với cây
Cây bốn mùa xanh thắm
Xanh thẳm
Xanh non
Xanh mỡ màng
Xanh như thể nắng hè

      muốn nhuộm xanh cũng đủ

Bạn bảo tôi thiền
Tôi thú thực
Tôi không
- Ai thiền nổi giữa những gì mơn mởn...



Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011

CHÙM THƠ TÔ HOÀN






                                                                  
                                                        NHÀ THƠ TÔ HOÀN                                                      

TÔ HOÀN 



Sinh: 1948.
Quê: Việt Yên, Bắc Giang. 
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Giang.
   Tác phẩm chính - Thơ:
 Có một lời ru - 1989
 Phía nào cũng gió - 2001
 Giấc mơ của nắng - 2007.


SÔNG

Đời sông thì phải chảy
Uốn lượn kiếp phù sinh
Vơi đầy ai thấu đáy?
Sông không chảy cho mình.

MẮC CẠN TRĂNG SUÔNG

Nghìn năm sông còn yếu đuối
Như em tha thướt anh buồn
Muốn ngược lòng tìm nguồn cội
Sợ mình mắc cạn trăng suông.

TIẾNG RAO KHUYA

Tỏ mờ những tiếng rao khuya
Tiếng rao cũng ướt đầm đìa như sương
Bóng ai thập thững đêm trường
Tiếng rao mang cả con đường đi xa. 


VƯỜN THÁP CHÙA BỔ ĐÀ
                                                                              


 CÕI BỔ ĐÀ

Theo mơ đến cõi Bổ Đà.
Gặp thông vươn tay mở gió.
Tiếng kinh tiếng chuông tiếng mõ.
Nhủ ta về cõi thiện tâm.

Nắng ru vườn tháp âm âm.
Mưa cong mái chùa huyền thoại.
Thời gian chừng như trễ nải.
Trăm năm mòn bóng nâu sồng.

Không không... sắc sắc... không không.
Lời ai lần theo tràng hạt.


TỈNH LẺ

Đất tỉnh lẻ chim bay qua không đậu
Phải cây chưa xanh hay quả chưa vàng?
Trời tỉnh lẻ không cao không thấp
Mây từng đàn nhong nhóng… mặc trần gian.

Sông tỉnh lẻ chảy hoài không tới biển
Nước bao năm vẫn líu ríu chân cầu
Người lái đò bỏ khách chờ nhạt bến
Mải mê tìm í ới tận đâu đâu.

Đêm tỉnh lẻ ngôi sao nào cũng bạc
Dưới trăng suông giun dế quá nhiều lời
Ngọn gió đồng thổi qua không đủ mát
Ngọn gió đồng tỉnh lẻ cũng mồ côi.




Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

MỘ CÔNG CHÚA NGỌC HÂN Ở ĐÂU?



      MỘ CÔNG CHÚA
      NGỌC HÂN Ở ĐÂU? 

                                                                              Duy Phi 


   Loa Hồ - một hồ nước rộng, tiếp giáp với nhiều thôn trong xã Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Theo các bậc cao niên trong làng Phù Lưu - quê các nhà văn: Hoàng Tích Linh (1919 – 1990), Kim Lân (1921 – 2007), Nguyễn Địch Dũng (1925 – 1993), Hoàng Tích Chỉ, (Hoàng ) Thuý Toàn, Hoàng Hưng - 





NHÀ VĂN KIM LÂN
                                                                                 
trước đây diện tích mặt nước Loa Hồ chừng sáu mươi mẫu (hai mẫu bảy bằng một ha), hiện nay còn trên bốn mươi mẫu. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, hiếm nơi có được một hồ như thế. Nhìn mặt nước Loa Hồ mênh mông, ngỡ như Tân Hồng có một Hoàn Kiếm.
   Trải qua bao thăng trầm, đến nay Loa Hồ vẫn còn vẻ đẹp, nói chi cách đây vài trăm năm. Sen hồng, sóng biếc, những đêm trăng sáng... Một vẻ đẹp tự nhiên, thanh khiết.
   Mê say cảnh Loa Hồ, các thi nhân xưa trên đất này đã có nhiều bài thơ ngâm vịnh.
   Nguyễn Đức Lân (đỗ Phó bảng khoa Nhâm Dần - 1842, thời Thiệu Trị, giữ chức Chủ sự Bộ binh) lấy Loa Hồ là nguồn cảm hứng chính, đã viết trăm bài thơ, phú thành thi tập Loa Hồ bách vịnh. Đó là một hiện tượng độc đáo trong văn chương kim cổ.
   Xin trích đôi ba câu trong bài phú nguyên văn chữ Hán, ông Phó bảng viết năm 1872, tạm dịch: Cưỡi thuyền mấy khách tiếp chuyến đi Xích Bích Đông Pha/ Một hồ thu vũ trụ trời mây, muôn thuở góp càn khôn cảnh trí.../ Tạnh mưa, chiếc thuyền con lướt nhanh tung tăng lạc giữa non xanh/ Sáng trăng, gương mặt hồ lan xa thăm thẳm soi hình mây biếc...
   Tiếp theo là các bài thơ thất ngôn bát cú: Văn chung (Nghe tiếng chuông), Hồ thượng giai nhân (Trên hồ với người đẹp), Hồ thượng văn quyên (Trên hồ nghe tiếng quyên, tức chim cuốc)... Ví dụ, bốn câu cuối của bài Trên hồ nghe tiếng quyên: 
...Bến lạnh cỏ thơm khoe sắc thắm
Chiều xuống khe sâu vắng bóng người
Khắc khoải tiếng kêu mày có thấu
Chiêu hồn ai tủi chuyện đầy vơi*   
   Đến thời Tự Đức, Hoàng Văn Hoè (hiệu Hạc Nhân), cũng người Phù Lưu, đỗ Tiến sĩ rồi đỗ Yêm bác khoa Tân Tỵ - 1881. Trong tập Hạc Nhân tùng ngôn của ông có bài thơ Đề Loa Hồ đình trung (Đề thơ trong ngôi nhà ở Loa Hồ). Ngôi đình ngôi nhà đó chính là miếu là đền xưa. Đó là nơi các tao nhân mặc khách thường gặp nhau đàm đạo văn chương thế sự.

                                                                            
                                                                          

             Bài thơ, tạm dịch:

Lung linh miếu nổi ánh hoa bày
Bạn hữu tư văn chính ở đây
Gai trúc xanh rờn, trời để phúc
Sen hồng nước lục, đạo càng say
Qua song núi hiện như mây biếc
Dưới nguyệt trà thơm toả khói bay
Xin gửi chim âu lời nhắn nhủ
Mười năm đèn sách phụ công này.

    Trong Hạc Nhân tùng ngôn, Hoàng Văn Hoè còn có bài thơ Cửu nguyệt dạ phiếm chu Cổ Quắc hồ (Đêm tháng Chín chơi thuyền trên hồ Cổ Quắc). Chữ Hán, loa là con ốc. Thành đắp hình chôn ốc gọi là loa thành. Phụ nữ búi tóc hình con ốc gọi là loa kế. Chúng tôi đã coi lại Loa Hồ, đúng như bài phú của Nguyễn Đức Lân đã mô tả: Trời đất linh thiêng, đất hun huyền diệu/ Ba thôn sừng sững, dòng nước uốn quanh - mặt hồ có hình chôn ốc.
   Bài thơ chữ Hán về hồ Cổ Quắc của Hoàng Văn Hoè 22 câu. Dạ lai, phiếm nhất chu/Chu tiễn khinh như tiễn/ Vấn thị Cổ Quắc hồ/ Hồ thâm tĩnh như luyện…

Dịch thơ: 


Đêm tháng Chín
chơi thuyền trên hồ Cổ Quắc

Đêm nay ngồi mát trên thuyền
Thuyền con nhẹ, lướt như tên vẫy vùng
Đây hồ Cổ Quắc phải không?
         Hồ sâu êm ả, sóng bồng như quen
Trời vào thu biếc cao thêm
Buộc thù du giúp êm đềm cuộc vui
Hơi cây, mặt sóng bời bời
Gió đưa cánh nhạn, vòm trời xa xăm
Chuông chùa đâu tiếng vang ngân
Xóm bên mấy nóc âm thầm, thấp thoi
Bốn bề hung khí tan rồi
Núi xanh mờ tỏ, trăng soi ánh ngà
Thuyền đi trăng cũng theo mà
Núi kia trông lại càng xa, xa dần
Chiếc cầu con vượt cách ngăn
Nghe dăm câu hát, nhịp ngân mái chèo
Lan hành thơm mé khe reo
Trăng rơi đáy nước lạnh nhiều, thấu xương 
Ngọ Thằng sao xuống thấp hơn
Dẫu khuya thi hứng bồn chồn chưa vơi
Trên trời mây trắmg cứ trôi
Tình đâu bỗng thấy cao vời, phiêu diêu…
                                  Duy Phi dịch

    Cổ có một nghĩa là náo động, quắc là con chẫu chuộc. Hỏi lại người làng Phù Lưu mới biết hồ Cổ Quắc chính là Loa Hồ. Mùa mưa, lúc bơi thuyền trên hồ nghe tiếng chẫu chuộc inh ỏi náo động mà thi nhân gọi là hồ chão chuộc - hồ Cổ Quắc. Còn bây giờ, nhân dân địa phương thường gọi là hồ Đầm. Trong đầm gì đẹp bằng sen... Có lẽ vì tiếng Đầm đã được Việt hoá hơn, dễ gọi dễ hiểu hơn. 
   Gò đất nổi giữa đầm từ xa xưa đã có ngôi đền thờ Bà chúa Đầm. Thời Bảo Đại, Bà chúa được phong sắc. 
   Gần đây có một bài báo bàn về ngôi đền này. Tác giả viết: “Ngôi đền đầm thờ một người cụ thể: Thanh nữ Lê Ngọc chứ không phải Bà chúa Đầm truyền thuyết. Thanh nữ Lê Ngọc có thể là công chúa Lê Ngọc Hân? Làng Phù Lưu, xứ Kinh Bắc, cách làng Phù Ninh (làng Nành) không bao xa, “đi tắt cánh đồng chỉ vài ba cây số”, “đã có thời hai làng cùng chung một tổng”,“Tượng người đàn bà với hai đứa trẻ phải chăng là hình ảnh công chúa với hai con nhỏ?”...
   Về công chúa Lê Ngọc Hân, trong cuốn sử Các triều đại Việt Nam (Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng. TN- 1995) có ghi: Vua Quang Trung yêu quý Ngọc Hân bởi sắc đẹp và tài năng. Vua băng, Ngọc Hân có bài thơ Ai tư vãn khóc chồng. Sau, nội bộ lục đục, triều Tây Sơn mất. Ngọc Hân và hai con phải đổi danh tính vào Quảng Nam sống lẫn trong dân, không lâu sau, bị phát hiện bị bắt. Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh. Hai con bị thắt cổ chết (Kỷ Mùi 1799).
   Nghe tin thê thảm ấy, Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, mẹ đẻ ra Ngọc Hân, lúc đó sống ở quê Phù Ninh (Tục gọi là Nành, Bắc Ninh) liền thuê người vào Quảng Nam lấy trộm được xác con gái và hai cháu đem về mai táng tại đồng làng rồi cho dựng miếu thờ. Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu bị đổ nát. Một ông tú người làng Nành... đã quyên tiền tu sửa miếu. Không ngờ, ông tú bị tên phó tổng có thù riêng vào tận Huế tố cáo. Triều đình Nguyễn liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu thờ vợ con “nguỵ Huệ”. Hài cốt “bị vứt xuống sông”, hoặc mai táng đâu không rõ nữa! Ông tú kia bị trọng tội. Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai bị giáng chức.  
   Gần đây, chúng tôi có dịp đến hồ Đầm thăm đền. Trên cổng đền có bốn chữ Hán lớn: Thuỷ Tiên linh từ - đền linh thiêng thờ Bà Tiên chốn Thuỷ cung, tức Bà chúa Đầm. Hỏi bà Quy - thủ từ đền (đã ở đây trên hai mươi năm) và một số các cụ bà thường đến thắp hương, cúng bái ở đây, tôi được biết Bà chúa Đầm có tên hiệu là Băng Ngọc chứ không phải Lê Ngọc. Dựa trên những thư tịch cổ (Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Các tổng, trấn, xã danh bị lãm (viết khoảng 1802 – 1819), Đồng Khánh dư địa chí lược (1886)..., Nguyễn Văn Huyên biên soạn cuốn Địa lý hành chính Kinh Bắc, viết bằng tiếng Pháp (Nguyễn Khắc Đạm dịch, Hội khoa học lịch sử VN xuất bản - 1997). Phần về huyện Đông Ngàn có ghi: Phù Lưu xã (Chợ Giầu) thuộc tổng Phi Lưu, còn Phù Ninh xã (Làng Nành) thuộc tổng Hạ Dương. Làng Nành cách Phù Lưu năm bảy cây số.           
Bà thủ từ nói: Trong đền, không có tượng công chúa với hai con nhỏ. Để cho tôi tin, bà đã mở cửa đền đưa tôi vào thắp hương và xem lại. Một số pho tượng trong đền có hai tiểu đồng. Bên cạnh pho tượng chính (Bà chúa Đầm) không có hai đứa trẻ.
   Dẫu vậy, ngôi đền Đầm Lung linh miếu nổi ánh hoa bày vẫn là linh từ, tôn nghiêm. Về phong thuỷ, hồ Đầm là vật báu. Đó còn là một di tích văn hoá quý hiếm, rất đáng tự hào. Xin được giữ gìn hơn nữa (môi trường, quy hoạch) để Loa hồ - hồ Đầm mãi mãi là cảnh thắng của Tân Hồng, Xứ Bắc, Một hồ thu vũ trụ trời mây, muôn thuở góp càn khôn cảnh trí…            

                                                        D. P



--------

 * Một số đoạn thơ trích trong cuốn Ai lên Quán Dốc Chợ Giầu, Phù Lưu- 1992 (Bài của các tác giả Hoàng Hồng Cẩm, Thuý Toàn...) và cuốn Thơ chữ Hán Hoàng Văn Hoè của Duy Phi, Lê Xuân Hãng, Tống Đức Nhuận.


 
 

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

NGÂY NGẤT NGẮM NỮ HOÀNG AI CẬP




Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập Tin ảnh


Nhiều người mê mẩn trước vẻ đẹp kiêu sa, hớp hồn từ đôi mắt của Nữ hoàng Xứ Ai Cập Fathima Kulsum Zohar Godabari.
Fathima Kulsum Zohar từng là một công chúa hoàng gia và hiện tại cô đang là Nữ hoàng chính thức của Xứ Ai Cập.
Với nhiều người, đây mới chính là người phụ nữ đẹp nhất thế giới.


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 1)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 2)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 4)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 5)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 7)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 8)


Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 10)





Ngất ngây ngắm Nữ hoàng Ai Cập  - Tin180.com (Ảnh 11)

 NGUỒN:   NGUYỄN KHÔI (HÀ NỘI)



     























khoidinhbang@yahoo.com.