TỪ TRÁI:
VŨ TỪ SƠN & DUY PHI
TRONG RỪNG LỘC NINH, BÌNH PHƯỚC - 2011
THƠ VŨ TỪ SƠN
LỜI BÌNH: ĐẶNG VĂN SINH
VŨ TỪ SƠN
Sinh:
1949. Quê: Minh Đức, Từ Sơn, Bắc Ninh. Hiện sống và viết tại Thành phố Bắc
Giang. Hội viên: Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Giang. Tác phẩm chính - Thơ: Một chặng đường (2006), Hương sắc thiên
nhiên (2007), Gửi gió (2008)…
Ta về tìm lại- Vũ Từ Sơn, chùm 11 bài trong tập thơ tứ tuyệt
Phận đèn (9 tác giả).
HỎI DÒNG
THƯƠNG
Thương em vượt cạn mấy lần
“Đang đông buổi chợ” tảo tần nắng sương
Trời làm “lũ quét” dòng Thương
Nửa đau ra biển, nửa buồn ngược đâu…
TA VỀ TÌM LẠI
Be sành đựng rượu quán con
Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay
Mùng tơi tím ngắt bàn tay…
Ta về tìm lại cay cay mắt mình.
GỬI GIÓ
Ta gửi gió bài thơ tình chưa cũ
Người yêu thơ giờ bặt lối nơi nào?
Ta gửi gió lời đóa quỳnh héo rũ
Phía trời xa có thấu động cành dao?
KHÁT
Mây lang thang khát chân trời
Gió lang thang khát rong chơi nổi chìm
Lạc bầy chim khát cánh chim
Tôi lang thang khát đi tìm bóng tôi…
THIẾU
Thiếu tiền thì vay
Thiếu danh ta trổ tài
Thiếu quyền ta tu chí
THÁNG BA
Ngủ dưới gốc gạo trước thềm
Chõng tre ngon giấc bặt quên việc đời
Sông nhà nào biết đầy vơi
Sáng ra hoa lửa đỏ trời tháng ba…
KHÔNG ĐỀ
Em là cửa chính ngôi nhà
Con là cửa sổ trổ ra vườn ngoài
Bốn mùa hoa quả đằm sai
Sải chiều tiếp bạn mấy chai rượu làng.
ĐÊM SA PA
Gió cõng tiếng cồng lên đỉnh núi
Trăng gùi câu hát tới bản bên
Anh thả tiếng khèn vang rừng vắng
Buông sợi chỉ hồng đến với em.
THÁC DẢI YẾM*
Đương thì trời đất thoả lòng nhau…
Dải yếm bỏ quên, trải dãi dầu
Để lại trần gian nguồn vô tận
Ai người nhân thế rõ nông sâu?!
Mộc Châu, 29- 4- 2011
---
*Thác Dải Yếm thuộc Mộc Châu, Sơn La.
GỬI VỢ
Cho Hoà
Em nhé! Khôn thiêng về ăn Tết
Với lũ con thơ với mẹ già
Nén nhang anh thắp vòng tha thiết
Mới đấy mà em đã vội xa!
MƯA XUÂN PHỐ THẮNG
Mưa lã chã xập xoè rẻ quạt
Tiết xuân rớt lạnh khách đi đường
Phía em đợi tím màu hoa ngày trước
Tiếng chim reo chợt ấm một mùi hương.
LỜI BÌNH: ĐẶNG VĂN SINH
VŨ TỪ SƠN
TA VỀ TÌM LẠI
Với Vũ Từ Sơn, thơ là
những dòng cảm xúc của một hình thái tâm thức mất cân bằng. Trạng thái nghiêng
lệch ấy đổ bóng vào thơ tạo nên những cung bậc tình cảm khác nhau như bảng hòa
sắc tự nhiên thiên về gam lạnh.
Những bài: "Hỏi
dòng Thương", "Ta về tìm lại", "Khát" và "Gửi
vợ" có thể xem là tứ tuyệt điển hình của tác giả. Cả bốn bài đều có kiểu
lập ý, lập tứ và kỹ năng diễn đạt cùng một phong cách, cùng tiệm cận một hệ quy
chiếu. Đó là nỗi đắng cay của sự mất mát. Nỗi đau riêng được ký gửi vào thơ,
chuyển thành hình tượng tâm trạng, đồng thời khái quát được cả nỗi đau nhân
thế. Những câu: "Đang đông buổi chợ tảo tần nắng sương/ (...) Nửa đau ra
biển, nửa buồn ngược đâu...", "Be sành đựng rượu quán con/ Bờ tre xõa
tóc ru mòn võng đay", và, "Lạc bầy chim khát cánh chim/ Tôi lang
thang khát đi tìm bóng tôi..." đều là những dạng thức diễn tả tâm trạng.
Đó không chỉ là một kiểu tâm trạng phiếm định trong mặt phẳng lệch, mà còn là
những dòng thi cảm thổn thức, một mảnh hoài niệm, phiêu diêu trong ký ức
thời gian.
Tứ tuyệt Vũ Từ sơn luôn
thấp thoáng một hình ảnh "em", cho dù đấy là một dòng Thương trời làm
"lũ quét", "một "Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay", một
tiếng cồng đêm Sa Pa, hay khi thắp nén nhang gọi hồn người vợ yểu mệnh về nhà
ăn tết. Phải chăng, từ nỗi niềm riêng ấy, đã hình thành dạng bối cảnh
thơ, nhất là lục bát tứ tuyệt, luôn bảng lảng một tinh thần hoài niệm, hướng về
không gian làng quê quan họ vùng Kinh Bắc ngày xưa. Những hình ảnh liên tưởng
"be sành đựng rượu quán con", "mùng tơi tím ngắt",
"chõng tre ngon giấc", "dải yếm bỏ quên"... làm không ít
tâm trạng người đọc bâng khuâng.
THÁC DẢI YẾM
MỘC CHÂU - SƠN LA
Khác với Tô Hoàn, Tân
Quảng và Duy Phi, tứ tuyệt Vũ Từ Sơn không nặng về suy tưởng, ít triết lý mà
chủ yếu là những dòng tự vấn về thân phận con người . Những thân phận đơn lẻ,
nhỏ bé, được diễn tả như những lời tâm sự với chính mình. Thơ anh không
tuyên ngôn chủ nghĩa, không ồn ào trường phái, mà cứ lặng lẽ như mạch ngầm chảy
trong lòng đất, rồi đến một lúc hình thành dòng suối mát, hòa với nguồn lớn, đổ
vào đại dương thi ca một cách khiêm nhường. Những câu: "Trời làm 'lũ quét'
dòng Thương/ Nửa đau ra biển, nửa buồn ngược đâu...", "Be sành đựng
rượu quán con/ Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay", "Sông nhà nào biết
đầy vơi"/ Sáng ra hoa lửa đỏ trời tháng ba...", "Nén nhang anh
thắp vòng thao thiết/ Mới đấy mà em đã vội xa..." có thể xem như những
mảnh vỡ tâm hồn được hàn gắn lại sau khi con người được tái sinh qua lửa, nước
và ống đồng theo cách nói của truyện cổ tích dân gian Nga.
Có thể nói, tứ tuyệt Vũ
Từ Sơn là tứ tuyệt tâm trạng. Hình ảnh trong thơ anh cũng là hình ảnh tâm
trạng, một tâm trạng đã đi gần hết vòng tuần hoàn mà tạo hóa bắt thân phận nhà
thơ phải vất vả vượt qua trên hành trình đi về "cõi vô cùng". Hình
như hiểu được cái "đạo" của thi ca nên tác giả vẫn nhẫn nại gánh số
phận trên vai, lầm lũi vượt dốc thời gian...
-----
* In
trong Tạp chí Sông Thương, Tháng 5/ 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét