THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN TRÃI
DUY PHI Biên dịch
NXB HỘI NHÀ VĂN - 2003,
308 TRANG, KHỔ 13X19 (cm), bìa: TRẦN ĐẠI THẮNG
NHÀ THƠ MỸ
FRED MARCHANT
ĐỌC THƠ NGUYỄN
TRÃI
Bài của DUY PHI
Tôi bất ngờ, khi Fred
Marchant - một nhà thơ Mỹ lại tâm đắc với thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, bài Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác. Thì ra, rất
có lý, Fred Marchant - một cựu binh thế kỷ XX- XXI, tìm thấy sự đồng điệu trong
thơ Nguyễn Trãi, một cựu binh của thế kỷ XV.
Bài DẦN DÀ SỬNG SỐT: MỘT
SỐ VẤN ĐỀ CỦA SỰ GẶP GỠ GIỮA MỘT SỐ NHÀ THƠ VIỆT NAM VÀ MỸ của Fred Marchant (Nguyễn Chí Hoan dịch từ
tiếng Anh, trong Tạp chí Văn học nước ngoài,
3- 2012) có đoạn:
Tôi muốn nói … về một bài thơ
rất nổi tiếng - của Nguyễn Trãi - mà tôi và Nguyễn Bá Chung bạn tôi đã cùng
dịch sang tiếng Anh:
LOẠN HẬU ĐÁOCÔN SƠN CẢM TÁCNhất biệt gia sơn kháp thập niênQui lai tùng cúc bán tiêu nhiênLâm tuyền hữu ước na kham phụTrần thổ đê đầu chỉ tự liênHương lý tài qua như mộng đáoCan qua vị tức hạnh thân tuyềnHà thời kết ốc vân phong hạ?Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
Nghĩa:
Từ giã quê hương vừa đúng mười
năm
Nay trở về, tùng cúc một nửa đã
tiêu sơ
Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ
phụ
Trong cát bụi cúi đầu tự thương
mình
Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao
Chiến tranh chưa dứt, may được
toàn thân
Bao giờ được làm nhà dưới chân
núi mây
Múc nước suối nấu trà, gối lên đá
mà ngủ.
Nhà thơ Fred Marchant viết tiếp:
“Việc dịch (thơ) đối với tôi
có nghĩa là đọc đi đọc lại những định nghĩa và những thành ngữ khác nhau mà bài
thơ đó gợi lênm và trong quá trình đó tôi biết được nhiều đến thế về cuộc đời
Nguyễn Trãi ở triều đình cũng như ở cuộc đời thường, ở nơi ẩn lánh của thi nhân
trên Côn Sơn, những dòng thơ đã vương vấn tâm trí tôi năm này qua năm khác.
Đúng vậy, bụi phủ đầy đầu có nghĩa ông đã xa nhà vì chiến tranh loạn lạc quá
lâu. Nhưng vì sao ông nói: Ta không làm
gì được nữa. Rất nhiều ý nghĩa toả ra từ ngữ đoạn này. Có lẽ nó nói rằng
chẳng còn gì để làm ngoài việc hồi hương sống trong cuộc sống khiêm nhường và
thanh nhã trên núi. Nhưng tôi bỗng nghe trong đó nhiều nỗi ân hận không rõ rệt,
những ân hận phủ đầy tâm hồn ông như bụi bám trên đầu ông. Cũng như điều xảy
đến với những cựu chiến binh của bất cứ cuộc chiến tranh nào, có biết bao điều
không thể nói, mà đôi lúc lại hiện ra theo cách thoáng thôi nhưng đầy sức mạnh.
Tôi nghĩ dòng thơ này cũng vậy, và dẫu đơn sơ, nó vẫn bắt đầu dần làm tôi
choáng ngợp, và sự thể vẫn cứ thế. Với tôi thì ngữ đoạn đó là tâm điểm sự thật
trong bài thơ, rằng có một cảm thức hầu như không thể nói ra về nỗi ân hận và
mất mát vẫn đeo đẳng trong người chiến binh hồi hương này…”.
Đọc ngữ đoạn, lời bình của Fred Marchant
về bài Loạn hậu đáo… Chợt nhớ, một bản dịch thơ, trong cuốn Nguyễn
Trãi toàn tập (NXB KHXH -
1969, tái bản 1976):
SAU LOẠN ĐẾNCÔN SƠN CẢM TÁCXa cách mười năm chốn cố sanQuay về tùng cúc đã lan manSuối rừng có hẹn sao nên phụĐất bụi cúi đầu chỉ tự thanVừa lại quê nhà như thấy mộngMay trong binh lửa vẫn tuyền thânBao giờ dưới ngọn mây về ởNước suối chè tươi ngủ thạch bàn?(Bản dịch trong Nguyễn Trãi toàn tập, KHXH - 1969)
Bài này có chú thích:
“Thạch bàn: Vì vần bắt buộc, chúng tôi lấy ý “ngủ thạch bàn” thay gối
đầu lên đá mà ngủ. Hiện ở nửa chừng núi Côn Sơn còn có chỗ gọi là thạch bàn ở
bên suối, tương truyền là Nguyễn Trãi thường hay nằm nghỉ”.
Bản dich thơ Sau loạn đến Côn Sơn…
có ưu điểm đã “cày vỡ”, nhưng cũng do bí vần, nên dùng nhiều từ Hán: cố san,
tuyền thân… Đã dịch thơ chữ Hán ra tiếng Việt lại dùng thêm chữ Hán vào, ấy là điều
tối kỵ.
Cuối bài dịch thơ có thêm hai chữ thạch
bàn, mà nguyên tác không có.
Hồi những năm sáu mươi của thế kỷ trước, có đến năm năm liền tôi dạy học
tại xã Cộng Hoà (Chí Linh, Hải Dương)- xã có Côn Sơn. Từ trường tôi vào đến chùa
Hun - Côn Sơn chừng hai cây số. Một lần bão, có cây thông lớn đổ. Trường tôi được
làm thêm một lớp, các vì kèo, nóc bằng thông Côn Sơn. Không nhớ là đã đến Côn Sơn bao nhiêu lần,
bao nhiêu lần tôi ngẩn ngơ trước cây đại sù sì hoa trắng, trước bia Thanh Hư Động
và con suối quanh năm róc rách… Đọc Côn
Sơn ca có câu: Côn Sơn có đá tần vần/
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
(Côn Sơn hữu thạch/ Vũ tẩy đài phô bích/ Ngô dĩ vi đạm tịch), lại nghe các cụ
truyền lại, trong Côn Sơn có thạch bàn, một phiến đá lớn lắm, phẳng phiu, xưa
Nguyễn Trãi thường ra đó ngồi ngắm cảnh, làm thơ, suy tư việc nước… Nhưng hồi ấy rừng rậm, chúng tôi không sao tìm
được. Xa Chí Linh chừng hai mươi năm, trở lại, khi di tích Côn Sơn đã được trùng
tu, cây rừng đã vãn, người ta mở lối lên, theo suối, lên thượng nguồn, tìm thấy
thạch bàn. Đó chính là thạch bàn lớn (còn có thạch bàn nhỏ). Phiến đá này bằng
cái nền nhà năm gian, thường gọi là hòn
đá năm gian, đã có người đo, nói
rộng chừng 200met vuông.
Câu thơ cuối bài Loạn hậu đáo…,
nguyên tác chữ Hán của Nguyễn Trãi: Cấp
giản phanh trà chẩm thạch miên. Cấp
là múc nước, giản là khe suối, phanh là nấu, trà: hẳn là trà xanh, chẩm:
gối, thạch: đá, miên: ngủ. Nấu nước suối tinh khiết, trà mới ngon. Uống trà xong, gối
đầu lên đá mà ngủ là thú, cái thú của một giấc thanh tịnh sau mười năm binh lửa
(1417 - 1427). Cụm từ chẩm thạch miên,
hình như có chịu ảnh hưởng của thơ Đường, bài thơ Đáp nhân của Thái Thượng Ẩn Giả, câu: Ngẫu lai tùng thụ hạ/ Cao chẩm thạch đầu miên (Tình cờ đến dưới gốc
thông/ Cao đầu gối đá. giấc nồng đến ngay). Gối đầu lên đá mà ngủ, ngủ được, là
phong cách người lính, hoặc ẩn sĩ. Còn dịch ra là ngủ thạch bàn, chỉ là ngủ trên phiến đá phẳng phiu thì mấy kẻ ngưu, tiều
thường vẫn ngủ thế, không có gì đặc biệt. Ba chữ chẩm thạch miên, dịch là ngủ
thạch bàn thì ý hay đã bị mất mát nhiều lắm.
CẢNH CÔN SƠN
NHÌN TỪ BÀN CỜ TIÊN
Sau khi khảo cứu lại những bản dịch thơ của nhóm làm sách NTTT - 1976, băn khoăn bởi trong số 373 chú thích có trên một trăm chú thích biện minh cho việc dịch sai nguyên tác. Ví dụ, vì bí vần, chúng tôi dịch rắn thành rồng (bài 39), vì bí vần, dịch đồng hồ nước thành đồng hồ cát (bài 29)... , tôi đã viết bài trao đổi, nêu những ưu điểm và bất cập của các bản dịch thơ trong NTTT, tạp chí Hán Nôm số 4/ 2002 đã in.
Cần có một giấc ngủ. Đúng như nhà thơ Fred
Marchant viết: có một cảm thức hầu như
không thể nói ra về nỗi ân hận và mất mát vẫn đeo đẳng trong người chiến binh
hồi hương này. Cần phải có một
giấc ngủ. Bên này bên kia thì vẫn là dân chúng, hàng chục vạn người mất: Lạng Sơn Lạng Giang xương chất đầy đường/
Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước/ Gió mây vì thế phải biến sắc/ Nhật
nguyệt thảm đạm đến lu mờ - Cáo Bình Ngô).
Đã thế, triều đình lại rối ren, nhũng nhiễu. Mới yên binh lửa được bốn
năm thì hai đại công thần, chí thiết của Nguyễn Trãi: Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn và
Thái Bảo Phạm Văn Xảo bị hãm hại. Bản thân Nguyễn Trãi bị bỏ ngục mấy tháng…
Gối đá ngủ một giấc. Bao khắc khoải, cũng cần quên đi…
Đọc những điều tâm đắc của nhà thơ CCB Mỹ Fred Marchant, thêm thấy sự trường tồn của thơ chữ Hán thơ Nôm, ngôi
sao Khuê văn hoá Việt Nam- Nguyễn Trãi. Với bài thơ LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM
TÁC, chúng ta cần phải gắng để có một bản dịch thơ
xứng đáng hơn.
Kẻ vãn sinh
này mạnh dạn góp thêm một bản Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, dịch ra thể lục bát:
SAU LOẠN ĐẾN
CÔN SƠN CẢM TÁC
Xa quê núi đúng mười năm
Cúc tùng nay đã nửa phần tiêu sơ
Hẹn rừng suối, sao đắn đo
Cúi đầu giữa cát bụi mờ, tự than
Vừa qua làng, ngỡ mơ màng
Chiến tranh chưa dứt, mấy toàn thân đâu
Bao giờ, lều dưới non cao
Trà nước suối, đá gối đầu, ngủ ngon...
Duy Phi dịch
Phủ Lạng Thương 6- 2012
D P
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét