Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

THƠ ĐINH LIỆT, GIÁ TRỊ ĐẶC BIỆT





LỆ CHI VIÊN HẬN SỬ 


  GIÁ TRỊ ĐẶC BIỆT 
                           TRONG THƠ
                      THÁI SƯ ĐINH LIỆT   

   
    Đinh Liệt, quê Đông Cao, Nông Cống, nay là Triệu Sơn, Thanh Hoá. Ông là cháu, gọi Lê Thái Tổ là cậu ruột. Mười lăm tuổi, Đinh Liệt đã theo Lê Lợi. Khởi nghĩa, bàn mật, đầu tiên có bốn người, Đinh Liệt trong đó. Danh sách những người có mặt tại hội thề Lũng Nhai (1416) thì Đinh Liệt được ghi ở vị trí số ba: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt, rồi mới đến Nguyễn Thận, Lê Ngân, Lê Liễu, Trịnh Khả, Lê Sát... Tất cả 22 người. Đinh Liệt lập nhiều công, sớm thành trụ cột của triều đình. Hai mươi tám tuổi, ông đã là Đại công thần, Thái tổ ban chức Suy trung Tán trị Hiêpk mưu Bảo chính công thần Vinh lộc đại phu Tả kim ngô Đại tướng quân. Năm 1429, vua cho khắc biển công thần, được phong là Đình Thượng Hầu. Say này, Đinh Liệt nhận chức Thái sư. Thọ đến 85 tuổi, Thái sư Lân quốc công Đinh Liệt biết nhiều chuyện thuộc thâm cung bí sử trong các triều vua: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân, Lê Thánh Tông. Những điều cơ mật ấy ông có ghi lại bằng văn, thơ thành tập Bút ký Hồng Mai. Văn thơ trong Bút ký Hồng Mai ghi lại những trang hào hùng và phản ánh cả những mặt trái, đen tối, những vấn đề cấm kỵ. Tập sách này lộ ra, tác giả nếu không bị trảm cũng mục xương trong ngục. Biết vậy, Đinh Liệt rất cẩn trọng, bảo quản. Tương truyền, ông có hầm riêng để giấu tập sách, đến vợ con cũng không được biết. Đến lúc sắp mất, ông mới trao cho con trai cả là Lê triều Thủ khoa Binh bộ Thượng thư Đinh Công Đột. Thượng thư đã chép lại, soạn thành Ngọc Phả Họ Đinh. Theo các nhà nghiên cứu, vào khoảng thập kỷ 80 của thế kỷ XVIII, do cho nhánh họ Đinh ở Thanh Trì - Hà Nội mượn, Ngọc Phả bị thất lạc. Đến tháng 10 năm 1953, gần hai trăm năm sau, ông Đinh Quốc Bảo, hậu duệ họ Đinh ở Đông Cao - Thanh Hoá, tinh thông chữ Hán, tình cờ tìm được Đinh Tộc Ngọc Phả ở Quảng Châu, Trung Quốc. Ông Bảo đã nhờ người mượn để ông chép ba ngày ba đêm, ghi vào năm cuốn vở học sinh loại 56 trang. Sau đó, ông Bảo mang về nhờ một số nhà khoa học cùng dịch giúp. Bản dịch được hoàn thành vào cuối năm 1989.      .   .  
   Trong Bút ký Hồng Mai có một số bài thơ có giá trị đặc biệt.
   Bài thơ Đinh Liệt ca ngợi Lê Lai, biết ơn ông. Bốn người đầu tiên kết nghĩa tại một vườn đào: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận. Sau đấy là hội thề Lũng Nhai 22 người. Các cuộc lễ ấy, Lê Lai đều được đứng bên Lê Lợi. Khi Lê Lợi bị bao vây, Lê Lai đã giả làm Lê Lợi, xưng vương, đem 500 lính, giết hàng ngàn tên giặc. Lê Lai hy sinh giữa trận tiền.  Lê Lợi được thoát:

Kỷ Tín tằng tái hiện
Lê Lai nguyện thế thiên
Tử trung hoàn sinh địa
Đại Nam sử vĩnh truyền
Niệm hà thời sinh hoả
Tứ nhân đệ nhất kiên
Tự Lũng Nhai minh thệ
Niệm nhị khỏa đào viên
Xưng vương tiết Nguyên đán
Tướng bài trụ thủ thiên
Hà nhật thành sự nghiệp
Ảm hà tất tư nguyên.

Dịch:

Kỷ Tín lại xuất hiện
Lê Lai nguyện thay trời
Trong chết tìm cõi sống
Sử Nam sáng đời đời
Nhớ hồi nào nhen lửa
Kiên dũng nhất bốn người
Từ Lũng Nhai thề nguyện
Vườn đào hai hai cây
Xưng vương, Tết ấy, Lê Lai
Bên vua, đứng cạnh lễ đài uy phong
Mai ngày nghiệp lớn thành công
Hỡi ai, được uống nước sông, nhớ nguồn.








   1* Đinh Liệt và 
        bài thơ đầu tiên về hồ Hoàn Kiếm

Hoàn Kiếm hồ, bài thơ của Đinh Liệt cũng nhiều người nhớ. Xưa, hồ Hoàn Kiếm ở gần thôn Tả Vọng, người ta gọi là hồ Tả Vọng, lại trông màu nước xanh lục, có thời gọi là hồ Lục Thuỷ. Tên: hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm) có từ thời Lê. Tương truyền, Nguyễn Thận làm nghề chài lưới trên một khúc sông vùng Lam Sơn,  một đêm thấy có hào quang hình rùa từ đáy sông chiếu lên, bèn quăng chài xuống, khi kéo lên được một lưỡi kiếm thần, trên kiếm có khắc hai chữ Thuận Thiên. Ông đã dâng Lê Lợi. Từ đó, kiếm này gọi là kiếm Thuận Thiên (Sau, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế cũng lấy niên hiệu là Thuận Thiên). Một hai ngày sau, người nhà Lê Lợi lại thấy ở trong vườn có chiếc ấn báu khắc tên họ Lê Lợi; và dưới một gốc đa có cái chuôi kiếm. Lê Lợi cho lắp lưỡi kiếm vào chuôi, thấy khớp. Đó là điềm trời ban ấn kiếm, giáng mệnh thiên tử. Sau đại thắng, Lê Thái Tổ phải lo trăm nghìn công việc, trong đó có việc giảm binh, hướng vào nông tang, tinh giảm mười vạn quân. Đúng vào ngày rằm tháng Tám, sau khi tế lễ trời đất, vua tôi lên thuyền “biểu dương lực lượng” trên hồ Tả Vọng. Lúc ấy, bỗng mưa to sấm chớp, rùa vàng bơi lên. Linh cảm, biết là rùa đòi kiếm, vua bèn trả. Lập tức, mưa tạnh, trời xanh chim lượn, thuyền rồng và thuyền các quan lại đua bơi, trăm họ vui ca. Rùa vàng lại xuất hiện với vẻ hân hoan mừng nước non đại định. Trong Ngọc phả, Đinh Liệt có ghi thêm một chi tiết rất thú vị: Vua đã trả kiếm, ít lâu sau, có một vị tướng xin cho chăng lưới bắt rùa để lấy lại kiếm thần, nhưng Lê Lợi gạt đi...
  Chứng kiến cảnh tượng ấy, Đinh Liệt có bài thơ Hoàn Kiếm hồ:
Nguyễn Thận hiến thần kiếm
Vương gia phương kiếm bính
Chân thiên thiện an bài
Thập nhị thiên đại định
Hoàng đế phụng thiên mệnh
Bách tính đắc an cư
Triều đình tân thiết lập
Nông tang khởi phong thu
Bang giao chính khai triển
Hồi ức lạp tuyên từ
Hồi ức Lam Sơn vãn
Thiên hạ trương thái hoà
Tinh giảm binh thập vạn
Quân thần ngoạn Tả Vọng
Thuận Thiên hoàn kiếm thời
Không trung khai lôi vũ
Biếm nhân nhật trùng lai
Kim quy quẫn du vịnh
Thanh thiên điểu tường phi
Quần thần hoan tuyển tiếu
Bách tính hô vạn tuế
Hạnh phúc thái bình ca
Ngoạn du thi nhất thủ
Ân trạch nhuận vạn gia. 




  
   
 Dịch thơ: 
               
               HỒ HOÀN KIẾM

Nguyễn Thận dâng kiếm thần
Vương gia được cán cầm
Chân thiện, trời sắp đặt
Đại định mười hai năm
Hoàng đế vâng mệnh lớn
Trăm họ được an vui
Thiết lập triều đình mới
Lúa dâu tốt bời bời
Đường bang giao khai triển
Ngẫm đúng  như lời nguyền
Nghĩ Lam Sơn ước vọng
Thiên hạ mừng bình yên
Tinh giảm mười vạn binh
Vua tôi vui Tả vọng
Lúc trả kiếm Thuận Thiên
Bỗng mưa òa sấm động
Mây qua mau, quang tạnh
Rùa vàng bơi gần xa
Trời xanh, chim nghiêng lượn
Quần thần cười khuây khoa
Trăm họ hô vạn tuế
Hạnh phúc thái bình ca
Thơ một bài, ghi lại
Ân trạch thấm muôn nhà.

              (Duy Phi dịch).                                  
. Cuối bài thơ, có ghi: viết vào ngày 15 tháng 8 năm Mậu Thân 1428, có nghĩa là viết ngay trong không khí trả kiếm. Ai đã đọc bài này một lần thì khó quên, bởi đó là bài thơ đầu tiên về hồ Hoàn Kiếm, lưu lạc gần hai trăm năm, nay mới được biết. 





 LAM KINH

2* Đinh Liệt và 
     chùm thơ về vụ án Lệ Chi Viên


Đặc biệt tâm huyết, rung động hậu thế hơn cả có lẽ là chùm thơ tứ tuyệt xung quanh chuyện động trời: thảm án Lệ Chi Viên. Thị Anh tham lam, tàn ác và xảo quyệt. Lê Thái Tông yêu quý Thị Anh quá mức. Đó là mối nguy cơ lớn cho xã tắc. Bút ký Hồng Mai còn có bài thơ: 

Tống Thai mạc kiến nguy ký hiện
Nịch ái thịnh y nhật nhật tăng
Mỹ sắc diễm ngôn gia phỉ báng
Cơ đồ sự nghiệp hải hà băng.

Dịch thơ:

Thái Tông chẳng thấy nguy đã hiện
Yêu quý Thị Anh quá nồng nàn
Lời ngọt, người xinh chê tất cả
Cơ đồ sự nghiệp biển sông tan! 
                                  DP dịch 

   Thị Anh đã vu oan cho bà Ngô Thị Ngọc Dao (đang có mang với vua, bụng chửa lớn) làm bùa hại Bang Cơ, khép tội voi giầy cho đến chết (để giết cả cái thai bên trong, sau này sinh Lê Thánh Tông). Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ (có sự  hỗ trợ của Đinh Liệt) can vua, cứu được, cho đi lánh. Ấy là mối nguy cho Nguyễn Trãi.
   Lê Thái Tông băng, Bang Cơ hai tuổi lên ngôi, bà Thị Anh lên làm Hoàng Thái hậu. Từ đó, thế lực hắc ám lấn át cả. Đại công thần Đinh Liệt cho rằng, Thị Anh nói rằng nhờ linh dược, thực ra là hoang thai. Đinh Thắng - viên quan biên chép còn ghi rành rành. Thị Anh có mang mới sáu tháng đã sinh con. Bang Cơ tức Nhân Tông. Bang Cơ không phải là giống rồng, không phải là con của Thái Tông. Đinh Liệt làm một bài thơ chữ Hán, nhưng ông sợ, các tên người đều phải viết kiểu nói lái: Nhân Tông thì viết là Nhung Tân, Thái Tông thì viết là Tống Thai, Đinh Thắng viết là Thăng Đính. Ông bảo, nỗi nhục này của hoàng bào (vua) ngàn năm khôn rửa sạch:

Nhung Tân hà hữu Tống Thai tinh
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
Niên nguyệt nhật thời Thăng Định ký
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh*

Dịch thơ:

Đâu phải Nhân Tông huyết Thái Tông
Sinh con sáu tháng lạ vô cùng
Tháng ngày Đinh Thắng còn ghi chép
Nhục mãi, hoàng bào khó gột xong!
                                            DP dịch 

    Thời Lê sơ, đầu thế kỷ XV có nhiều oan khuất: Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn bị sát hại năm 1431 (sai đã được sửa năm 1456), Thái Bảo Phạm Văn Xảo bị hãm hại năm 1432 ( đời Trần Nhân Tông được minh oan), Thừa chỉ Nguyễn Trãi bị trảm năm 1442 ( Lê Thánh Tông xuống chiếu minh oan, lại truy tặng ông: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tấm lòng Nguyễn Trãi sáng như sao Khuê buổi sớm)…
 Xử: Nguyễn Trãi dùng bà Lộ tiến độc vua là oan, xử “vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng”, trảm bà Lộ cũng là oan. Sử gia thời Lê sơ không cùng đẳng cấp với các thái sử Đổng Hồ, Thôi Trữ xưa, đã ghi theo “lề phải”, chính thống.
Nguyễn Thiên Tích - bạn cố tri của Nguyễn Trãi, làm phán quan đành bó tay, mà Đại công thần - chánh án Đinh Liệt, người thương kính Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ vì sợ liên luỵ, bị tru di tam tộc, cũng bất lực. Hồi ấy, hai chục năm sau, ông vua Thánh mới biết Nguyễn Trãi bị oan, chứ quan lại dân chúng thấy ngay sự oan khuất. 





LAM KINH - THANH HOÁ 

Đại công thần Đinh Liệt, người phải đứng ra làm chánh án vụ xử Nguyễn Trãi thấy rõ oan mà đành bất lực. Ngay trong ngày Nguyễn Trãi bị trảm (16 tháng 8 năm 1442). Đinh Liệt gọi Nguyễn Trãi là quan gia, ông là chánh án nhưng không phải là Bao Công và than, chờ Bao Công còn xa lắm:

Khả tích quan gia mạc thức thời
Tru di tam tộc thị thương ôi!
Phá kính trung viên, hà thời giải
Bao Công, chân lý đẳng tương lai.

Dịch thơ:

Quan gia đáng tiếc chẳng theo thời
Tam tộc chu di xót quá thôi
Gương vỡ bao giờ lành được nhỉ?
Bao Công, chân lý ngóng xa vời... 
                                DP dịch 

Xin nói rõ thêm, theo sử, ngày 3 tháng 8, vua dời Côn Sơn về kinh. Bà Lộ được đi hộ giá. Từ Lục Đầu Giang rẽ vào sông Thiên Đức (Đuống) thuyền rồng ngược dòng, nên luôn phải hàng chục phu thuyền dùng dây tam cố gò lưng mà kéo. Đến ngang xã Đại Toán thuộc Quế Võ thì phu kéo mãi thuyền không nhích lên được. Vua hỏi. Lương Dật (em nuôi Lương Đăng - viên quan chống Nguyễn Trãi quyết liệt) tâu: “Ngay trên bờ có Cầu Bông, cạnh cầu có mộ Bạch Sư rất thiêng, nếu không cúng sẽ nhiều trắc trở”. Tham tri chính sự Nguyễn Xí nói, không tin vào điều đó được, song vua lại truyền bảo: “Cho thuyền dừng, cắm trại, lệnh cho sở tại thịt nghé tơ để tế thần”. Mấy hôm liền, vua vẫn không được khoẻ. Đêm 4 tháng 8 vua về đến Lệ Chi Viên... Trong chuyến vua vi hành này, Hoàng hậu Thị Anh không có mặt, nhưng tất nhiên tất cả các quan và năm cung nữ bên vua đều là người của Thị Anh cả. Chỉ có bà Lộ một phía. Có việc gì qua mắt được cánh Nguyễn Xí, Tạ Thanh, Lương Dật, các cung nữ? Vua băng, cả đoàn lặng lẽ hồi kinh. Từ Lệ Chi Viên đến kinh đô chỉ chừng 45 cây số. Chặng ấy, đoàn xa giá phải đi cả ngày, đêm mồng 5, hết ngày mồng 6, nửa đêm mới vào cung, phát tang.Nếu bà Lộ có mưu giết vua, cớ sao khi vua đã băng, không trốn?  Vì ngoại phạm, bà Lộ tự cho vô can mới không trốn. Từ đó, suy ra, ngay câu mà sử gia chép “vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng”, cũng là câu đã qua dàn dựng!
Thơ Đinh Liệt chân thực đã chiếu rọi và phá tan đám sương mù bao trùm gần sáu thế kỷ nay trên nhiều trang sử chính thống.  Thơ có sức mạnh riêng, vẻ đẹp riêng. Không chỉ là một Thái sư trung quân ái quốc, Đinh Liệt còn có tâm hồn, cốt cách thi nhân chân chính, treo gương sáng cho nhiều thế hệ bút lông, bút sắt....    

                                                                                                  D P





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét