Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

SỢI TÌNH THỬ LỬA/ TIỂU THUYẾT CỦA DUY PHI






Sợi tình thử lửa 
    Tiểu thuyết
       Tác giả: Duy Phi
Viết về vua Chăm: Chế Mân & Ngọc Hân công chúa  
SAVINA liên kết với NXB VĂN HÓA THÔNG TIN
Xuất bản Quý II- 2012. 290 Trang. Kích Thước: 13,5 x 20,5 (cm)
 “Tiểu thuyết về công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân. Tác giả đã tích lũy, khai thác được nhiều tư liệu quý về Người Việt người Chăm, dựng lại được không khí xưa, từ đó mà có những trang sống động về triều Trần anh hùng. Thời ấy, Huyền Trân đã đặt đất nước lên trên hết, trở thành một tấm gương phụ nữ anh kiệt. Đã có nhiều tiểu thuyết về Huyền Trân, song Sợi tình thử lửa với một Huyền Trân có chiều sâu tâm hồn, được viết giàu chất thơ, đọc “chạy trang”, hấp dẫn, đã vượt lên một số cuốn trước”.
                                                        Trích Lời Tòa soạn
                                Tạp chí Sông Thương/ Số 5, Tháng 10- 2012
“Sau khoảng hai chục đầu sách (thơ, tiểu thuyết, biên khảo), nhà văn Duy Phi một lần nữa thành công ở thể loại tiểu thuyết lịch sử. Đọc Sợi tình thử lửa thấy cái tài dựng truyện và xây dựng nhân vật của Duy Phi. Nhân vật hoạt, có tính cách riêng được sống “hồn nhiên” trong thời đại của mình đã tạo ra một cuộc sống tiếp nối trong lòng bạn đọc. Nhân vật của ông sống động và có một trường nội tâm vượt xa trang sách. Nhiều tình tiết hóm hỉnh bật cười, nhiều đoạn miêu tả hết sức sexy, khiến người đọc thực sự thư giãn... “
                                                        Trích bài của QUỲNH CHI   


TÁC GIẢ CHỐNG GẬY
LÊN CHÙA ĐỒNG- YÊN TỬ
(Đi tìm tư liệu) 

Trích chương: 

ĐÊM TÂN HÔN
         

Trong vòng tay, người ngọc

Thủ thỉ chuyện thần tiên

Đời người ta thật ngắn

Khi trận cười thâu đêm


                         (Thơ cổ)


     Qua đầm Thị Nại mà tưởng vẫn là biển cả. Lên kiệu, chuyển sang xe song mã, mui xe lợp vàng,      rèm hoa văn lượn sóng buông rủ.        
... Rất đông giáp sĩ, họ xếp hàng đôi, cờ hoa nghi trượng phấp phới. Đó là những lá cờ với nhiều kích cỡ nhiều màu sắc, gió bay phần phật.
 - Thưa Lệnh Bà, đến kinh thành Chà Bàn rồi ạ! Phi Thuỷ- thị nữ Chiêm vừa dứt lời thì một tràng pháo lệnh nổ vang, hương thuốc pháo thơm ngát, sau mỗi tiếng nổ, giấy pháo tung bay như một đàn bươm bướm đỏ. Tiếng chiêng, trống tiếng reo hò vang dội. Buổi đó, Huyền Trân thấy như một giấc mộng.
   Thành Chà Bàn rộng mênh mông, tường thành cao đến mười trượng, xây gạch giữa một vùng chênh chênh những dải đồi trập trùng cao thấp. Khu cung điện- Tử cấm thành có nhiều dãy nhà cao lợp ngói âm dương hoặc ngói ống.
   Quế Nhi và Phi Thuỷ dìu nàng...Như một thân liễu thướt tha, nàng đi trong ánh mắt của hàng nghìn người, triều đình và dân chúng kinh thành. Mọi người đều vô cùng xúc động.  
   Lộng lẫy như một hạt ngọc, có nàng cả đất trời bừng sáng. Khi tà áo lụa mỏng màu thanh thiên bay lên trong gió, mọi người đều tiếc là ngọn gió không thổi mạnh hơn nữa. Từ lúc Huyền Trân xuất hiện, cả trăm người đàn ông ở đấy đều bị chao đảo như say sóng. Đi trên một tấm thảm màu đỏ, Huyền Trân chợt thấy trước mặt có một người ngồi trên ngai vàng, miệng cười rộng. Phỉ Thuý nói:
- Thưa Lệnh Bà, đây là Quốc vương Chế Mân, tức Jaya Sinhavarman- III.
   

Dẫu Phi Thuỷ không giới thiệu thì Huyền Trân cũng đoán

được. Ông vua trẻ chừng bốn mươi tuổi, người anh hùng đã hùng đã từng cầm chân, làm tiêu hao nhiều sinh lực của đội quân Toa Đô khi chúng đến xâm chiếm mảnh đất này đây.

   Người đã cho làm bẫy đá bỗng dưng sập xuống đầu giặc, đã để những cái lu đập nắp kín, giặc tưởng là chứa đồ ăn tranh nhau mở, thì cả vạn con ong cùng bay ra đốt chúng túi bụi. Người đã có được sự quý mến, tin tưởng của Phụ hoàng ta, khiến Phụ hoàng có thể ở Chiêm trên nửa năm, lại hứa trao cho con gái, người đã dâng cả châu Ô châu Lý làm sính lễ...

   Bao niềm cảm xúc trào dâng, Huyền Trân muốn chạy lại ôm Chế Mân, nhưng tính nữ gia giáo và ý nghĩ về quốc thể nhắc bảo nàng phải cẩn trọng.

   Áo quần, khăn mũ Chế Mân đều màu trắng. Trước ngực Chế Mân có đeo một thẻ bài ngà dài đến một gang tay phía cuối hình xéo như đuôi cá. Sau này, nàng mới biết đó là cái Nha chương bằng ngọc, một biểu tượng của người đứng đầu Chiêm quốc.

   Nàng cúi đầu thi lễ, bỗng bao nhiêu vốn liếng tiếng Chiêm quên hết, nàng nói bằng tiếng Việt với một giọng nhỏ bé nhưng trong trẻo:

- Tiện thiếp xin cúi đầu chào Quân vương.

   Phỉ thuý dịch lại. Tất cả reo vang:

- Quốc vương  vạn tuế, Lệnh Bà Huyền Trân muôn tuổi.

   Cao lớn, oai nghiêm, lông mày rậm, giọng trầm ấm, Chế Mân nói một câu gì đó, cười. Phi Thuỷ dịch:

- Ôi! Công chúa, cứ tươi như hoa takơlao vậy, đi đường có vất vả lắm chăng?

   Nàng chỉ mỉm cười: “Dạ! Dạ!” thay cho mọi lời nói.

- Xin Lệnh Bà chào Hoàng hậu Tapasi. 
   Váy áo dát vàng đính ngọc, hoàng hậu Tapasi ngồi dưới một chiếc tán, người quê Chiêm thường gọi là cái du- du, màu cẩm thạch. Như một cái máy, nàng lại đi vòng quanh đưa ánh mắt nhìn từng người , vị Bố Đề (Tể tướng) đến các hoàng thân quốc thích.
   Trong này, nhiều phụ nữ xinh đẹp, môi đỏ như hoa râm bụt, phần lớn họ có kiềng cổ, vòng vàng bạc trên cổ tay,  mặc áo lu- á , cà- chăn (váy) màu vàng nhạt, màu cổ chim cu, màu hoa lý. Gấu váy có hoa văn năm lần vân sóng hoặc thêu núi non, hoa cỏ... Nam giới hầu như đều mặc quần áo trắng, một sắc phục mà mọi người đàn ông Chiêm trung thành, coi đó là niềm kiêu hãnh. Một số vị trên cổ quàng khăn đỏ, trức ngực có một vạt vải hình lưỡi rìu ngược. Lúc này, Huyền Trân mới nhớ ra, với nụ cười tươi thắm, nàng đi thi lễ một lượt và chúc:
- Thon phơ rao nga mau tre ton cơ to.
   Bất ngờ bởi công chúa Đại Việt nói được tiếng Chiêm, “Chúc làm ăn tốt. lúa đầy kho bắp đầy giàn”, với một âm sắc trong trẻo, mọi người reo lên như sấm.    
   Xếp nàng vào hàng ghế, Chế Mân ngồi giữa, một bên là Huyền Trân, một bên là Tapasi Hoàng hậu. 
   Giữa các phi tần mỹ nữ Chiêm, sắc đẹp Huyền Trân vẫn nổi trội, nàng như Hằng Nga vừa giáng thế. Nhất cử nhất động của nàng đều được mọi người ngắm nghía, bình phẩm.
   
Trong số những người nàng chào, có ánh mắt Tapasi hơi lạnh, vẻ mặt buồn, có thể vì không ai nhắc đến, bà cảm thấy mình như một người thừa. Một viên quan đứng phía sau bà, sau này nàng mới biết rõ tên là Taphía Kiệu. Hắn là vệ sĩ của Tapasi chăng? Thân lùn một mẩu, con mắt hắn u trầm, đôi khi loé lên ánh dữ dằn như mắt chó sói. Bỗng mọi người dãn ra, một đoàn chiêng trống, đàn rabap réo rắt, trống baranưng vỗ lên vang rộn. Một vị trưởng trò khăn đỏ cầm đao múa hát vang. Tiếp theo là một đoàn vũ nữ tóc xoã đến gót, da ửng hồng, vẻ đẹp láng từ đùi duyên từ mắt, uyển chuyển như bông dền tím giữa nương như bông hồng thắm trên núi, bên tay phải rung tiếng vòng đồng, bên tay trái reo tiếng lục lạc, tiếng trống tiếng hát cuộn nhau. Họ cùng ca lên rằng: 
Trời yêu quý nước Chiêm/ Đất mênh mông bốn cõi
Chúa Sin-ha-var-man/ Đời đời còn nối dõi...
   Đến điệu múa quạt các động tác guộn nảy, bật quạt, che mặt thật duyên dáng, tình tứ...
   Chế Mân xem múa hát thì ít, nhìn ngắm Huyền Trân thì nhiều, còn nàng, có vẻ chăm chú thưởng thức ca múa đó, thực ra chỉ lo kìm nén những rung động trong tim, có lúc tim nàng như nghẹn lại, khó thở.   
   Múa hát chưa đến một khắc giờ, Chế Mân bảo Tapasi gì đó, rồi quay sang nói với Huyền Trân. Phi Thuỷ dịch:
- Đức vua nói, Lệnh Bà đi đường đã mệt, cần về phòng nghỉ. 

*
   Huyền Trân về ở gác Thiên Lan, nhưng cả ngày hôm sau cũng không thấy bóng dáng Chế Mân. Ông chỉ truyền lệnh, hai ngày nữa, đúng vào chiều ngày thứ tư hạ tuần, sẽ làm lễ cưới.    
   Chế Mân chỉ một lần rẽ qua, Chế Mân đi cùng Tapasi, chỉ với những câu hỏi thăm về ăn, ngủ. Nàng đi mấy ngàn dặm vào đến đây để ăn ngon ngủ kỹ sao? Phi Thuỷ có nói: Quốc vương vừa có một ngày ăn chay (kiêng tất cả?), sau đó lại có cuộc đi đến châu Thượng Nguyên. Công việc triều đình Chiêm bận đến thế chăng?  
   Hai ngày chờ đợi.
   Huyền Trân nhớ lại ngày đưa tiễn ở Thiên Trường. Không hiểu sao, ngay cả các nho sinh cũng không hiểu được ý đồ của Thượng hoàng. của triều đình. Không ra mặt, nhưng họ đã làm thơ đả kích việc này, thơ viết lên tường, thơ rải quanh hồ bán nguyệt. Họ cho rằng, sau cuộc chiến chống Nguyên đại thắng, triều đình đã mạn nguyện, các quan lại chỉ mải ăn chơi, đã sợ chiến chinh binh lửa. sao nhãng binh bị. Chỉ có một mảnh đất châu Ô châu Lý, hai bên tranh chấp, không dám cho người đi đánh dẹp, lại phải dùng cái kế đàn bà nhan sắc. Cũng được thôi, nhưng nghĩ lại thì cũng buồn lắm, nhục kắm.     
   Thấy Quế Nhi còn ngồi thêu thùa, Huyền Trân hỏi: Hôm về Thiên Trường, mày có thấy bức tường ngay trước cổng vào có gì khác không? Có! Con thấy chỉ riêng bức tường ấy mới được quét vôi trắng. Có biết tại sao không? Chỉ thấy dưới lớp vôi trắng mỏng vẫn còn hiện mấy hàng chữ mờ mờ. Mờ mờ cái gì nữa, ai mà không đọc được. Công chúa cũng đọc mấy hàng chữ ấy? Không đọc sao được. Đó là mấy câu thơ nói về ta. Vô cùng ngạc nhiên, Quế Nhi hỏi: Vậy là bài thơ đó, ai đã viết về công chúa chăng? Họ không viết thẳng về ta, nhưng bóng gió như thế lại làm cho ta vô cùng đau xót. Rướn đôi mày cong lên, Quế Chi tỏ vẻ buồn: Thế cơ ạ!
   Ngừng một lát, Huyền Trân nói: Bài thơ có bốn câu: Yên Chi trường hàn tuyết tác hoa/ Nga mi tiều tuỵ một Hồ sa/ Sinh phạp hoàng kim uổng đồ hoạ/ Tử lưu thanh trủng sử nhân ta.
   Nghe như vịt nghe sấm, Thị Quế hỏi: Người ta không nói rõ tên công chúa? 
- Phải! Không phải là người ta viết được bài thơ này. Đây là một bài tứ tuyệt của Lý Bạch, đời Đường bên phương Bắc, viết về Vương Chiêu Quân.
- Chiêu Quân cống Hồ phải không ạ? Con cũng đã nghe kể nhưng không nhớ lắm.
- Chiêu Quân là một cung nữ xinh đẹp, tài hoa nổi tiếng thời Hán. Thời ấy, trong cung Hán có hàng nghìn cung nữ, Hán vương chẳng thể biết hết, bèn sai thợ vẽ là Mao Diên Thọ hoạ dung nhan từng người dâng lên. Diên Thọ là một tay nhiều mánh, cứ ai đút lót vàng bạc cho thì hắn vẽ mặt xấu thành đẹp và ngược lại. Là một mỹ nhân xuất sắc, Chiêu Quân không chịu đút lót, hắn vẽ nham nhếch như một con quỷ. Bấy giờ, Thiền Vu, vua đất Hung Nô hay đem quân sang đánh nhà Hán. Muốn cầu hoà, Hán vương tặng vua Hung Nô cung nữ Chiêu Quân. Ngày đưa Chiêu Quân lên đường, Hán vương mới biết nàng là một trang tuyệt thế giai nhân. Vua buồn tiếc, nhưng đã muộn. Chiêu Quân cũng đau xót, nàng gửi lòng mình trong tiếng đàn tỳ bà  não lòng, ai oán. Trước khi chết, nàng có dặn hãy chôn thi hài nàng quay đầu về đất Hán.Nấm mộ nàng gọi là thanh trủng.
Nghĩa là sao ạ?
Thanh trủng là nấm mồ xanh. Nơi ấy là một vùng khô hạn, quanh năm cây cỏ vàng vọt, tiêu điều, chỉ riêng có mộ nàng là cỏ mọc xanh biếc. Bài thơ đã có người dịch: 
Yên Chi hoa tuyết lạnh hoài
Cát Hồ đã lấp mày ngài lệ hoen
Sống thiếu vàng, hoạ nhọ nhem
Chết vùi nấm biếc,
                      bao niềm xót thương.     

VƯƠNG CHIÊU QUÂN 
   
Đời tài hoa của nàng chỉ còn là một nấm mồ xanh nới đất khách. Chép bài thơ đó lên tường chẳng phải là một lời trì chích Thượng hoàng sao? chẳng phải là lời nguyền rủa ta sao? Tiễn ta bài thơ đó, khác nào đem tấm vải trắng liệm ta khi ta vừa cất bước...
   Không hiểu mấy về thơ, Quế Nhi chỉ biết lựa lời khuyên giải:
- Không hẳn thế đâu, công chúa ạ! Chiêu Quân là một cung nữ sang Hung Nô cũng chỉ là cung nữ, còn Huyền Trân đường đường là một công chúa Đại Việt, sang đây sẽ làm Hoàng hậu, mở ra con đường hoà hảo giữa hai đất nước. Vì không đồng tình với kẻ viết, người ta đã cho xoá.
- Xoá thế thì thà đừng xoá! Bởi xoá bằng một lớp vôi mỏng, chữ vẫn hiện lên mồn một thì càng khiến người ta chú ý hơn. Ta biết số phận mình rồi, đi ngủ đi, không phải an ủi ta nữa.
  Quế Nhi về phòng bên một lúc, Huyền Trân đã nghe có tiếng thở đều đều.
   Không sao ngủ được, nàng nghĩ về từng nét biểu lộ của Chế Mân khi đón nàng, nghĩ về Văn Bích- Thiên Trân, về Yên Tử, về mối mâu thuẫn âm thầm và ngày càng sâu sắc giữa Quốc Chẩn và Tất Trung, về ánh mắt lạnh lùng của Hoàng hậu Tapasi và con mắt sói của viên quan lùn là Taphía Kiệu...Những mẩu ký ức không đầu không cuối, đang chuyện này lại sang chuyện khác. Cuộc đời nàng bị xô dạt...
   Gà đã gáy canh tư.
   Đầu óc mỏi mệt căng thẳng, nàng muốn ngủ một chút nhưng không sao ngủ được.
   Thành Chà Bàn này nghe xây dựng đã ba trăm năm. Chênh chếch phía Đông Bắc của gác Thiên Lan là dãy núi Mò O, có gò Long Cốt sừng sững. Tách khỏi điệp trùng, ngọn núi Mò O giống một chàng hiệp sĩ khổng lồ cầm cái khiên lớn chắn ngọn gió bấc, tạo nên bức bình phong cho cả kinh thành. Núi Mò O có thần núi rất thiêng, thần núi có nhiều kim cương châu báu, nuôi rất nhiều trâu vàng trâu đồng đen. Nhiều đêm khuya vắng, từng đàn trâu đồng đen trâu vàng ra khỏi hẻm núi đi rầm rầm trên những vạt nương bãi. Lại có những đàn lừa ngựa chở kim cương châu báu di chuyển từ hẻm núi này sang hẻm núi khác.
   “Ai hạp tuổi vận hên mới gặp”, người ta nói vậy, nhưng gặp phải biết cách, “dùng khăn màu đen quệt máu chó trùm vào đầu, mới bắt được của”.
   Thành Chà Bàn này cũng đã nhiều phen thành chiến địa. Những đêm mưa bụi, trên các con đường mòn vắt qua thung lũng thường mọc lên những bóng đen lầm lũi đi đi lại lại. Người ta bảo đấy là những bóng ma Hời, có ma cụt tay có ma cụt đầu, những bóng ma đó gặp gỡ nhau rì rầm trò chuyện, hoặc cặm cụi như đang đi tìm một thứ gì đó đã bị mất.
   Thi thoảng có bước chân ngựa rất gần, rầm rập, đó là đoàn lính gác cưỡi ngựa đi tuần tra. 
   Brừ brừ! có những tiếng động lạ xung quanh gác Thiên Lan, khi thì ở phía này khi thì ở phía khác.
   Huyền Trân thót tim chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. 
   Có bước chân người, có tiếng gõ cửa khe khẽ và gọi rõ tên nàng. Có lẽ là Chế Mân, chàng yêu ta đã đến ngay trong những ngày chay tịnh? Hay một kẻ xấu? Trong này có tục kẻ nào muốn ai thì đêm đến cươp?
   Huyền Trân sẽ sàng dậy nghe ngóng.
   Vừa lúc đó, có một đoàn kỵ mã đi tuần rầm rập. Nàng nhìn qua khe nhỏ, dưới ánh trăng hạ tuần, nhận ra bên ngoài một người vội vã chạy vào cánh rừng bên cạnh.
   Một tên lùn.
   Taphía Kiệu- tên lùn mắt chó sói đó chăng? Hắn định đến phòng nàng làm gì trong đêm khuya khoắt? Không lẽ, hắn đã uống rượu mật gấu?... 
   Hắn trở lại, trèo qua chỗ thông gió trên đầu hồi mà xuống, Taphía Kiệu cười sằng sặc ôm chặt lấy nàng đè xuống. Nàng vùng vẫy giãy giụa; “Ối, ối, Sói! Sói! Cứu tôi với, cứu tôi với...”. Quế Nhi vội vùng dậy chạy sang thấy công chúa vẫn mở mắt trừng trừng mặt thất sắc.
   Nhìn quanh, lại nhìn ra ngoài cửa sổ, không có gì, phải chăng chỉ do tâm thần công chúa hoảng loạn.     
   Gà đã gáy canh năm. Nàng vẫn không sao chợp mắt lại được.
   Hoan lạc ngày chừng ngắn
   Nhớ thương đêm thật dài
   Đêm đêm cứ như thế này thì mình phát điên lên mất- nàng lẩm bẩm.
   Sáng ra, lệ nàng thấm nhão gối... 
           
*
   Kể ra, hôm cưới thì không có gì đáng phàn nàn.
   Huyền Trân nhớ mãi buổi ấy. Muốn có một ấn tượng tốt ngay từ đầu, Huyền Trân mặc y phục Chiêm, có vương miện hạt châu, tóc búi ngược lên đỉnh đầu, ba cây trâm đính hoa ngọc, áo nhung đỏ, quấn một băng màu xanh lam từ vai chéo xuống ngực.
   Có một đoàn nhạc công đem nhạc cụ đến, đàn sáo vang lừng.
   Đã có nu- uôk hướng dẫn phong tục, giới thiệu các bậc cao niên, những người thân thích trong hoàng tộc, nhưng Huyền Trân vẫn thấy mình bối rối, vụng về, lúng túng.
   Vị trưởng đạo đọc kinh.
   Phút định mệnh đến,
   Sau khi tỏ lòng biết ơn vị trưởng đạo và vị sư Du Già đã tác duyên cho hai người, Chế Mân trao hộp may mắn, mắt nhìn nàng đằm thắm, nhẹ tay rút cây trâm cao nhất trong số ba cây trâm trên mái tóc của nàng. Chế Mân dùng ngón tay chỉ vào trán, miệng lẩm bẩm:
- Từ nay, nàng thuộc về ta và ta cũng thuộc về nàng.
   Đeo vào ngón tay nàng chiếc nhẫn mư- ta bằng hồng ngọc, Chế Mân nói:
- Ta với nàng như chiếc nhẫn với ngón tay này, khắn khít. 
   Quay ra, Quốc vương Chế Mân nói với quần thần:
Công chúa Huyền Trân có tên Chiêm là Paramecvare. Từ nay, Tapasi là hoàng hậu thứ nhất, Huyền Trân là hoàng hậu thứ hai.
   Mọi người reo vang. 

 THÁP CÁNH TIÊN Ở THÀNH CHÀ BÀN
NƠI CHẾ MÂN & HUYỀN TRÂN NHIỀU KỶ NIỆM 
(Ảnh DP - 2007, Tháp đang trùng tu)
   
mọi người đọc theo:
   Những tiếng ồm ồm nổi lên. Mọi người đọc theo khi vị trưởng đạo xướng lên những lời gia huấn,
Jao ka tawil tha bok karăh/ Min prong păk pacha
Tặng cô gái một chiếc nhẫn/ Nhưng quan trọng ở tấm lòng
Nabi hu likau bloh di amat/ Bray kajăp karô dua hajiup pathang
Ngăk blăng angui kajăp karô/ Oparabhô ginup mưda...
Thánh nhân đã cầu nơi thiên thần/ Xin ban phúc cho hai vợ chồng
 Sự nghiệp làm ăn vững bền/ Sung mãn giàu sang...
  .
   Đêm đầu đời có chồng, ngoài trời mưa rả rích.
   Phòng cưới trang trọng, được căng nhiều bằng những tấm tigai- rèm nhiều màu sắc. Để đuổi ma tà và ngăn bùa phép của kẻ xấu, Phi Thuỷ thắp lên những cây nến sáp ong sáng rực.
   Gió từ phía núi Mò O thổi về ù ù, lại nghe như có tiếng sóng của dòng sông Kôn dào dạt.
   Thích nàng như một loại kẹo quý, Chế Mân hôn hoài, không biết chán.
   Bỗng Quốc vương thấy trên án bên cạnh có một cuốn sách bèn với lại xem, thấy ghi chép chi chít, bèn hỏi: Sách gì? Nàng rằng, đó là sách ghi chép tiếng Chiêm.    Đặt tay lên gò nhũ, Chế lại lại hỏi: Ai dạy? Lúc này, chàng chỉ nói nhát gừng, bởi đôi môi rất bận. Huyền Trân đáp: Ông chú tên là Trần Nhật Duật dạy. Triều đình bên ấy có nhiều người biết tiếng Chiêm? Chỉ có mình Chiêu Văn đồng tử Trần Nhật Duật. Sao gọi là Chiêu Văn đồng tử? Chuyện dài lắm. Kể đi. Bàn tay Chế lùa sâu xuống dưới xiêm. Run sợ, xấu hổ, nàng nắm chặt bàn tay chàng kéo lên: Cái tay cứ thế này thì kể sao được? Giọng phụng phịu đáng yêu, nàng nói thêm: Đêm nay đừng làm gì đấy. Chế Mân trêu: Làm gì là làm gì? Kéo lại cho xiêm áo đỡ xộc xệch, Huyền Trân nằm trong tư thế thoải mái. Chế, tay trái vòng qua vai nàng ôm lại, tay phải đặt nhẹ dưới bầu nhũ, để nghe nàng thủ thỉ. Chuyện này, thiếp được nghe từ hồi còn nhỏ. Trần Nhật Duật là người trên trời xuống…  
- Chiêu Văn biết mấy thứ tiếng? Không biết. Nhưng khi tiếp sứ Nguyên, ông nói chuyện với họ suốt buổi, như bạn bè xa lâu ngày mới gặp, không cần người phiên dịch. Sứ Nguyên hỏi Chiêu Văn: Ông là người Quảng Đông phải không? Làm gì ở đây? Chiêu Văn nói: Không phải! Nhưng sứ Nguyên không tin.
   Lại có lần sứ SắcMãTic - Xingapo (?), Chiêu Văn cũng dịch được tiếng họ. Vua hỏi: “Tại sao biết?”. Ông nói: “ Thời Thái Tông, sứ nước ấy đã sang, có giao du với họ”. Phụ hoàng thường cười, bảo với mọi  thiếp: “Ông Chiêu Văn là người trời, xuống đây làm sứ giả để các dân tộc hoà hợp”.
- Tiếng Chiêm, Chiêu Văn cũng biết?
- Biết, chính Chiêu Văn dạy cho tiện thiếp đấy. 
   Chế Mân ôm chặt bờ vai nàng, lần xuống lưng, rờ thấy một cái nốt ruồi nhỏ xíu, chàng mân mê, ghì áp.
- Ông đã sang Chiêm sao?
  Khẽ nhấc tay Chế ra, đôi mắt lườm lườm, Huyền Trân nói:
- Tiện thiếp xin, để hôm khác, đêm nay đừng làm gì- Nàng nói tiếp- Chưa, chưa một lần đến Chiêm. Cách đây đã lâu, có một số người Chiêm sang Đại Việt rồi ở lại. Triều đình cho ở thành một thôn riêng bên vùng Kinh Bắc, theo tiếng Chiêm gọi là thôn Đa Gia Ly, người ta quen gọi là thôn Bà Già. Những ngày nhàn rỗi, Chiêu Văn thường cưỡi ngựa sang đấy chơi, học tiếng Chiêm, có lần ông sang bên đó học tiếng hai ba hôm mới về, do đấy mà thông thạo.
- Sao không bảo một người thôn Đa Gia Ly sang dạy?
- Có, một hồi Chiêu Văn bận việc, ông có vời một cô bé tên là Út Hảo sang dạy cho tiện thiếp. Nhưng chủ yếu vẫn là Chiêu Văn.
   Lật lại mấy trang sách, thấy toàn những chữ vuông vuông, vua Chế Mân hỏi:
- Chữ Chiêm sao lại ghi thế này?
- Nhiều chữ rất khó đọc, thiếp phải dùng cả chữ Hán chữ Nôm để chua cách đọc. Ví dụ câu: Yaw athaih klauh galing- Như ngựa đứt dây cương... thiếp phải ghi bằng chữ Nôm đấy.
- Đừng học câu đó, học để dứt dây cương đi khỏi Chiêm quốc sao?
   Biết là Chế Mân nói đùa, nàng cười:
Ngựa này đã bị đóng yên cương lại đóng hàm thiếc, chạy đâu cho thoát.
   Chuyện trò với Huyền Trân vui lắm, Chế Mân rất mừng bởi ngay từ đầu chàng đã thấy sự tương đắc, tâm đầu ý hợp. Xiết chặt lấy nàng, Chế Mân thấy vô cùng hạnh phúc, bên nàng trăm năm đầu bạc.
   Chế Mân dứt cái hôn, Huyền Trân nói: Hồi ở Phụng Thành, học tiếng Chiêm hay quên lắm. Từ hôm về Chà Bàn, hàng ngày tiếp xúc với nhiều người Chiêm, tiện thiếp biết thêm được nhiều. Vào đây, tiện thiếp rất muốn học thêm cách đánh đàn Chiêm, để... Làm gì? Thiếp muốn, trong những buổi ngắm trăng chỉ có hai người, thiếp sẽ đệm đàn để chúa hát. 
   Bỗng cảm hứng trào dâng, Chế Mân nuốt khan và rùng mình, giật giật. Từ nãy, nàng kể nhiều chuyện dài, định cho chàng nghe mà ngủ. Bây giờ, chàng sùng sục rít lên, hẳn là cương cứng quá, không chịu nối?
   Huyền Trân lại phải vỗ về, van xin: 
- Đừng! Đừng! Hôm nay, thiếp thấy... mệt…vì…  
- Một chút, một chút thôi. Chế Mân vội vã, gấp gáp.
   Ông vua đã thắng Toa Đô, mình đành thua. Chiều chàng. Nàng cởi giúp Chế tất cả. Là vị vua, nhưng cũng là một vị tướng, thân hình Chế chắc lẳn như một pho tượng. Nàng vội cởi các thứ xiêm áo của mình. Thân thể nàng là những đường cong tuyệt mỹ. Nàng thì thầm mấy câu gì đó, rồi im lặng… .  
   Thật đáng tiếc! Chẳng ra sao cả! Xa xót, lẫn vui mừng, nàng không bao giờ quên được.
     
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét