Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

NGƯỜI QUẢN CHÙA MẶC TRIỀU PHỤC/ PHẠM THUẬN THÀNH





NGƯỜI QUẢN CHÙA
MẶC TRIỀU PHỤC

         Truyện ngắn
                             PHẠM THUẬN THÀNH

Chùa Thanh Hư nằm sâu trong núi, xa làng xóm nên ít khi có người hành
hương, vẻ càng cô tịch. Người quản chùa đã lục tuần, dáng người cao, khuôn
mặt cương nghị, đăm chiêu, hơi có vẻ khắc khổ. Có điều lạ, ông khác những
người quản chùa bình thường mặc áo nâu sồng, ông luôn mang trên mình bộ
triều phục lụa xanh in hình rồng vờn mây mây trước ngực. Phẩm phục quan
đầu triều. Khu chùa rộng mênh mông lọt giữa rừng mai chớm ra hoa. Người
quản chùa thường đứng một mình ở tảng đá Thạch Bàn phía cuối rừng mai
nhìn ra hướng cửa sông Lục Đầu như ngóng chờ ai đó. Cũng có khi ông
ngâm ngợi câu thơ lạ chẳng hợp với chức trách người quản chùa:
Lầu xanh từng thấy khách thi nhân
Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng
Hôm nay ông đứng đợi người thật. Tín sứ mới đưa thư báo nàng Sương
Mai được về thăm ông ít ngày vì mới được thăng chức Lễ nghi học sĩ, chức
quan đứng đầu việc dạy lễ nghi cho hậu cung. Đã gần năm năm xa cách
chưa một lần gặp lại. Mấy thầy trò ông ra công phát cây trồng mai chờ nàng.
Chờ mãi. Rừng cây đã thành rừng mai. Những cội mai đầu đã sắp ra hoa.
Kinh thành không xa nhưng cấm cung sâu thẳm. Tình tri âm, nghĩa vợ chồng
chỉ còn trong kí ức. Thỉnh thoảng ông có gửi thư vào cung gọi nàng về
nhưng phần lớn không có hồi âm. Chẳng biết thư có tới tay nàng không nữa.
Mãi gần đây ông gửi một lá thư đầy trách móc bi phẫn nàng mới có thư hồi
âm. Nàng vẫn thề thốt chính chuyên, chẳng qua vì vướng việc vua mà không
dứt đi được. Thân phận con dân được thân rồng đoái thương mà bỏ đi liệu có
di họa cho ông hay không. Mà thân ông lại đang như trứng để đầu đẳng, tai
họa giáng xuống bất cứ lúc nào.
Vào cung mấy năm mà nàng già dặn, chín chắn như người đã làm quan
trải mấy triều vậy. Con người nàng sinh ra đúng là để làm những việc lớn.
Nội việc trở thành tri âm tri kỉ với ông, với vua há chẳng phải là việc lớn
hay sao. Thế mà giờ đây nàng lại còn kiên tâm thu xếp lo lắng con đường
về triều cho ông. Nàng về là đường đã thông. Ông về được triều là thời đã
đến. Phận ông nhỏ nhoi không nói làm gì, chí lớn giúp dân giúp nước của
ông mới là đáng kể. Thời văn trị là thời thái bình thịnh trị. Thời của nhà nhà
ấm no hạnh phúc. Thời của mưa đền cây sau bão can qua. Ông về triều thì
nàng sẽ về ở cùng ông. Tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa tri âm tri kỉ lại càng
khắng khít hơn xưa.
* * *

 TƯỢNG NGUYỄN TRÃI & NGUYỄN THỊ LỘ 
Từ ngày có người ở cái hẻm núi này có tên. Động Thanh Hư. Xóm ở ẩn
được gọi theo tên chữ. Quan tư đồ Băng Hồ biết khó vần xoay thời cuộc

lánh về đây. Hẻm núi hoang vu nhưng khá rộng rãi. Phong thủy đẹp. Phía
dưới hẻm mở ra khoảng trồng mênh mông của khu hồ nước đủ luyện cả hạm
đội. Quan tư đồ cho xây dựng phủ đệ ở bãi đất rộng chân hẻm. Nhưng người
lại làm am cỏ ở trên lưng chừng núi. Khi nhà Hồ lấy được thiên hạ nhà Trần
thì phủ đệ Băng Hồ “hóa gia vi tự”, chuyển thành chùa Thanh Hư, một địa
điểm trọng yếu của hệ thống chùa thiền phái Trúc Lâm. Người quản chùa
chính là người hầu của quan Tư Đồ. Đến cuối đời Thuận Thiên người quản
chùa đã già yếu, sư thầy Đạo Khiêm trụ trì chùa Hoa Yên thấy vậy gửi thư
cho hành khiển Nguyễn Trãi, cháu ngoại quan tư đồ, xin cử người đến trông
nom cùng cụ quản. Không ngờ chính quan hành khiển lại trở thành người
quản chùa Thanh Hư. Đường về chùa Thanh Hư là con đường thoát hiểm
dường như đã được ông ngoại tính trước từ lâu.
Nhưng đó chuyện của mấy năm sau. Còn khi nhận được thư của sư thầy
thì quan hành khiển đang lâm vào thế tuyệt vọng. Ông bị bắt giam ở đề hình
địa lao, hàng ngày phải dàn mặt quan tư đồ Lê Sát khai cung. Lê Sát truy
bức vai trò bày kế cho hai tướng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo làm
phản như thế nào. Nghe đồn “Bình Ngô sách” chỉ là quyển thượng, còn
quyển hạ sao không dâng chúa công. Phải chăng quyển hạ là kế sách giành
lại ngôi báu cho nhà Trần, cướp công chúa công khó nhọc mới giành được
nước. Nay Hãn đã bị diệt, nếu ông chịu nộp quyển hạ ra thì chúa công sẽ
phục hồi tước vị cho. Nguyễn Trãi không biết trả lời ra sao, một mực xin
được gặp chúa công để giãi bày. Khi viết “Bình Ngô sách” quả thật Trãi
này có nghĩ đến việc viết quyển hạ nói về kế sách trị bình. Nhưng lúc đó
cuộc chiến còn nhiều khó khăn, hơn nữa kế sách chuyển hướng vào Nghệ
An đang chín muồi, Trãi phải tìm đường vào Lam Sơn ngay kẻo lỡ thời cơ
kháng chiến nào đã kịp viết. Quyển hạ chỉ là kế sách trị bình khôi phục đất
nước sau chiến tranh mà thôi.
Cùng hỏi cung với Lê Sát còn có tổng quản cấm quân Trịnh Khả. Trịnh
Khả cũng là người chỉ huy lính canh giữ Nguyễn Trãi. Trịnh Khả là người
đội cỏ đột nhập doanh trại Trần Trí lấy được cốt tổ chúa công về nên
rất được chúa công tin cậy. Ông cũng là người biết rõ những tính toán
của “huynh đệ Lũng Nhai” đối với Nguyễn Trãi. Qua hỏi cung ông tin tưởng
vị văn thần này thực lòng muốn đem tài học giúp nước chứ không có ý đồ
thâm hiểm như lo nghĩ của “huynh đệ Lũng Nhai”. Ông ngầm lệnh cho quân
sĩ không được bạc đãi với vị mưu thần số một đoạt nước. Rồi ông gặp riêng
Nguyễn Trãi thổ lộ:
- Ông là người học rộng mà không hiểu lao lực của chúa công à. Lên ngôi
trên một bầy công thần lẫy lừng liệu có yên lòng không. Anh em ông một
văn một võ đầu triều tài trí đều hơn chúa công, đủ lập một triều đình riêng
liệu chúa công có yên lòng không. Sao không nhân cơ hội này xin được viết
quyển hạ “Bình Ngô sách” như lời ông nói cho chúa công yên lòng.
Nguyễn Trãi giật mình tự trách quá ngây thơ, quá trong sáng một lòng
giúp chúa mà không hiểu nỗi lo của chúa về ngôi vị của mình. Về ở ẩn thì
chúa lo không quản được, sợ mưu ngầm kết bè đảng. Ở chức thì chúa lo có
quyền binh dễ làm biến. Chỉ có cách giữ một chức nhàn quan là yên ổn nhất.
Quả nhiên đề đạt cho thời gian viết quyển hạ “Bình Ngô sách” đã được Lê
Sát chấp nhận. Lê Sát yêu cầu chỉ được ở trong vùng đầm lầy Thanh Trì cho
đến khi nộp quyển chờ chúa công định liệu sau.
Ngay khi bị bắt giam Nguyễn Trãi đã cho người nhà về quê hết, chỉ để
người quản gia già ở lại hầu hạ. Hai người đến bờ đầm Thanh Trì tự chặt
cây, cắt cỏ dựng nhà ở. Trịnh Khả phái hai lính cấm vệ đến giám sát nhưng
thực ra là để giúp đỡ Nguyễn Trãi những công việc nặng nhọc. Giường ngủ,
bàn viết đều ghép bằng cành cây. Công việc hòm hòm Nguyễn Trãi lên phố
sắm sửa giấy bút và kiếm chút đồ nhắm về đãi thợ là hai người lính cấm vệ.
Từ khi quân Minh cố thủ trong thành thì phố phường được mở rộng ra đáp
ứng mật độ người tăng nhanh. Lầu xanh, quán rượu, nhà trọ cũng xuất hiện
nhiều. Lầu xanh là một loại nhà trọ biến thái có từ lâu đời. Nhưng do tính
đàng điếm của nó nên những bậc văn nhân ít lai vãng. Bây giờ xa vợ con lâu
Nguyễn Trãi mới thấy lầu xanh cũng có cái hay của nó. Chả trách thời nào
lầu xanh cũng tấp nập, phồn thịnh. Nhân đang mặc áo vải ta rẽ vào một lần
cho biết mùi xem sao.
Thanh Phong lâu nằm nép bên bờ hồ Tây, khuôn viên trồng toàn liễu rủ
xanh mướt mát quanh năm. Ngôi nhà ba gian phía ngoài là nơi để hành lí
của khách. Qua khoảng sân hẹp bày la liệt chậu cảnh đến ngôi nhà hai tầng
chạy dài là phòng khách. Phòng nào cũng treo mành im lìm. Bà chủ son
phấn lòe loẹt, dáng người khá thon thả đến chào. Nguyễn Trãi bảo đang
buồn, cho một cô biết ngâm vịnh cùng uống rượu. Bà chủ tơi tả:
- Chúng em mới tuyển được một người như ý quý khách. Mời ông đến
Thanh Phong đình ở phía sau.
Thanh Phong đình đứng biệt lập sát mép hồ như người con gái e lệ. Gian
trong kê một giường đôi. Gian ngoài treo mành có bàn nước nhìn ra mặt
hồ vẻ rất thơ mộng. Nguyễn Trãi tự tay đốt lò đun nước trong lúc chờ đợi.
Nước sôi lại tự pha trà. Trà vừa chín thì thiếu nữ chừng đôi tám bước vào.
Không son phấn. Nhưng vẻ đẹp vẫn phát lộ khiến bất cứ người trai nào cũng
phải đưa mắt ngắm. Khuôn mặt thon thả, mắt to dài long lanh, cổ kiêu ba
ngấn đài các. Thiếu nữ tự ngồi đối diện Nguyễn Trãi, đặt đàn lên đùi chờ
đợi. Nguyễn Trãi rót nước mời. Thiếu nữ nhận nhưng không uống. Nguyễn
Trãi hỏi:
- Nàng người đâu ta?
- Thưa ông, tên tuổi, quê quán chỉ dành cho người tri âm. Em với ông
mới gặp lần đầu chẳng cần biết.
- Nàng nói hay lắm. Chốn lầu xanh chỉ cốt mua vui. Nhưng ta biết nàng
là một tài nữ mà ta vốn là một kẻ kiệt hiệt lẽ nào không là tri âm?
Thiếu nữ mắt sáng lên nhưng vẫn nói cứng:
- Tự xưng là gì mà chẳng được. Không biết kẻ kiệt hiệt bao giờ mới đứng
số đây.
Nguyễn Trãi nhận thấy rõ vẻ giễu cợt trong câu nói. Cũng đúng thôi. Kẻ
áo vải tuổi lại không còn trẻ thì kiệt hiệt nỗi gì. Nếu đã kiệt hiệt thì phải thể
hiện khí phách bình Ngô chứ. Mà đã có công bình Ngô sao còn cảnh áo vải
thế này. Cám cảnh, Nguyễn Trãi liền đứng dậy nhìn ra hồ khe khẽ ngâm bài
thơ tức cảnh:
Góc thành Nam lều một gian
No nước uống thiếu cơm ăn
Con đòi trốn dường ai quyến
Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn
Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải…
Nguyễn Trãi ngâm say sưa không biết thiếu nữ đã đứng bên tự lúc nào.
Chờ Nguyễn Trãi ngâm xong nàng nói khẽ:
- Em xin lỗi đã làm ông buồn. Đúng là áo vải bọc bầu tâm sự lớn.
Rồi thiếu nữ vừa sa nước mắt vừa kể về thân phận mình. Cha là người
có chữ, vừa dạy học vừa làm nghề thuốc. Tướng giữ thành Cổ Lộng biết
tiếng mời đến chữa bệnh cho quân đội. Khi thành bị phá ông bị chết trong
đám loạn quân. Lý trưởng nhân đó tịch thu hết gia sản vì tội làm tay sai cho
giặc. Bốn mẹ con dắt díu lên kinh thành tìm kế sinh nhai. Không may mẹ
ốm không tiền thuốc thang nên nàng phải đến đây đàn hát đợ thời giúp mẹ.

 CÔN SƠN 
Nguyễn Trãi bùi ngùi:
- Mấy chục năm quân Ngô chiếm đóng còn để lại nhiều tội ác cho dân
mình. Hoàng đế ban “Cáo bình Ngô” chẳng đã kể hết tội ác của chúng rồi ư.
Nước mất thì nhà tan là điều không thể tránh khỏi. Nếu là tri âm thì chuyện
nhà nàng ta có thể giúp được.
- Vâng. Vậy mời ông xướng em họa xem có thành tri âm được không.
- Hay lắm. Quê nàng có nghề dệt chiếu nổi tiếng mà ta đang cần sắm đôi
chiếu mới, ta ngâm đề này.
Em ở nơi nào bán chiếu gon
Chiếu em đem bán hết hay còn
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, có mấy con.
Thiếu nữ nghe xong chưa họa ngay mà trách :
- Ông lợi dụng thơ để hỏi dò em, được, em đáp đây.
Em ở nhà quê bán chiếu gon
Chiếu bán chưa hết nay hãy còn
Tuổi em vừa mới trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có có chi con.
Nguyễn Trãi nghe xong cười lớn:
- Nàng còn quá thể hơn cả ta. Nhưng nàng quả là người hay chữ, ứng đối
mau lẹ, sắc sảo. Nếu nàng không chê hàn vi ta xin được đón nàng về cùng.
- Em tuy không cao giá gì nhưng sợ ông đang hàn vi không đủ tiền mai
mối thôi. Ba trăm tiền chuộc, ba trăm tiền lễ đấy ông ạ.
Nguyễn Trãi cười to hơn:
- Thân nàng đáng giá ngàn vàng, ngàn vàng ta cũng có sá gì ngàn tiền ấy.
Cho ta biết tên ta quay lại đón ngay.
- Đời em mong manh lắm, hãy gọi em là giọt sương mai, nắng lên là em
tan hết.
* * *
Bình Ngô sách quyển hạ chưa viết xong thì chúa công mất đột ngột. Quan
tư đồ Lê Sát đến tận đầm Thanh Trì truyền khẩu dụ cho Nguyễn Trãi vào
cung chịu tang. Dẫu sao cũng là tình nghĩa quân thần nhiều năm chung sức
chung lòng nằm gai nếm mật.
Sau tang lễ quan tư đồ gặp riêng Nguyễn Trãi bảo:
- Vua mới còn nhỏ chưa quen việc nước, chúa công ủy cho bọn ta phụ
chính. Từ nay mọi mệnh lệnh do ta sai khiến. Ông biết điều thì ở yên đầm
Thanh Trì mà viết cho xong sách đi. Chúa công kì vọng rất nhiều vào ông
đấy. Ông thừa biết qua thời võ trị đến thời văn trị, thời của ông. Bọn võ biền
chúng ta chỉ cố thêm một vài năm nữa thôi.
Nguyễn Trãi âm thầm rời cung về lều cỏ.

(CÒN NỮA) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét