Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

LÊ THÁNH TÔNG/ QUA ĐỀN HƯNG ĐẠO VƯƠNG...


VUA LÊ THÁNH TÔNG
(MINH HỌA CỦA VŨ HUYÊN)


             LÊ THÁNH TÔNG
   
                   (1442 – 1497)

Vua Lê Thánh Tông tư chất tính khí cao sáng, đã lập Tao đàn Nhị thập bát tú, vua là Đô Nguyên súy. Vùng Hải Dương, Quảng Ninh được vua coi trọng, thường xuyên đi tuần thú, tập trận tại đây. ĐTM giới thiệu chùm thơ của vua viết về Chí Linh – Hải Dương.  

QÚA HƯNG ĐẠO VƯƠNG TỪ 

(Qua đền Hưng Đạo Vương)*


Tích tích phong tiền hồng diệp thụ
Du du thiên ngoại bạch y vân
Trùng lâu thúy vũ nhân hà tại
Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.

Dịch thơ:

Lá đỏ rừng cây, gió hắt hiu
Đầy trời, mây trắng lượn phiêu diêu
Lầu cao gác biếc người đâu tá?
Sừng sững núi hoang giữa bóng chiều.   
                                                                                     
                               Duy Phi dịch

---
 * Hưng Đạo vương: Trần Hưng Đạo, đời Trần, có công ba lần chỉ huy đánh thắng giặc Nguyên- Mông. Anh hùng dân tộc. Danh nhân quân sự thế giới. Đền thờ bên Lục Đầu Giang. 

ĐỀN KIẾP BẠC
(Ảnh 1904)

CHÍ LINH SƠN ĐẠO TRUNG
(Trên đường núi Chí Linh)

1
Hà nhạc anh linh tòng thác trung
Khách lai tự ngoại hốt văn chung
Nham loan xúc xúc hàn phong liệt
Nghi thị U Sơn thập nhị phong*

Dịch thơ:

Sông núi uy linh “túi” lạ thường
Khách vào, chùa vọng một hồi chuông
Lạnh lùng gió thét non sừng sững
Ngỡ gặp U Sơn những đỉnh sương.

                                       Duy Phi dịch

---
* Chữ thác chỉ bễ lò rèn -cái túi càn khôn. U Sơn, theo truyền thuyết, tên một dãy núi dưới Âm phủ.
          2
Tham thiền nhân luyến tâm vi Phật
Danh lợi đô quy tiểu yết quan
Lộ chuyển lâm hồi vân duệ lãnh
Cử đầu nghi nhập Tứ Minh sơn*

Dịch thơ:

Tham thiền muốn ứng tâm thành Phật
Danh lợi từ lâu gạt khỏi đường  
Tà áo, lối rừng mây thấm lạnh
Ngẩng đầu, ngỡ đỉnh Tứ Minh sơn.
                                                                                     
                                          Duy Phi dịch
---
* Núi Tứ Minh, theo truyền thuyết, có bốn cửa th[ng tới ánh sáng Nhật, nguyệt, tinh, thần. Ý: tu hành, mong được giải thoát, đắc đạo.

------
Các bản phiên âm chữ Hán: theo Di sản Hán Nôm Côn Sơn- Kiếp Bạc- Phượng Sơn của Hoàng Giáp & Nguyễn Khắc Minh/ Nxb CTQG - 2006.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét