Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

TÂM SỰ NGUYỄN DU/ THÁI DOÃN HIỂU







TỪ TRÁI:
NT NGUYỄN TRỌNG TẠO & NV THÁI DOÃN HIỂU




THÁI DOÃN HIỂU

(Hv Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh)



 TÂM SỰ NGUYỄN DU            


Nguyễn Du viết Truyện Kiều
Là để trút cả bầu tâm sự :
"Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ" (1)
(Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai).

     Thúy Kiều hai lần mặc áo xanh con ở
     Hai lần làm kỹ nữ chốn yên hoa
Liệt nữ không thờ hai chồng
Bắt phong trần phải phong trần
Đoạn trường thế ấy còn vần chưa tha.

Cậu ấm Nguyễn sớm bị rứt ra khỏi màn loan trướng huệ
Ném vào cát bụi phong ba.
Tôi trung không thờ hai chúa
Vị cựu thần nhà Lê
Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn
Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời ?







Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi
Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều
Mượn số kiếp nàng Kiều mà cảm thương thân thế
Nguyễn khóc Kiều là khóc chính cho ông
Nguyễn chiêu tuyết Kiều là chiêu tuyết cho ông.

Khoanh tay trông trời
Rủ áo nhìn đất
Nguyễn chỉ lặng im "Vâng ! Dạ !"(2) 
Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ "tiết"
Giữ vẹn tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời !?

"Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai "?
Tôi chợt hiểu ra mới ngoài ba mươi tuổi
Mái đầu Người đã trắng xóa như mơ ! (3)


Tiên Điền, 8-10-1999
Bên bờ sông Tiền Đường, 15-7-2005 
Tuyn tập 700 năm thơ Huế, H. Thuận Hóa 2007   -http://www.khoinguon.org/


--------------------

(1)                Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
(2)                Có lần, Nguyễn Du bị vua Minh Mạng quở :"Nhà nước dùng người cốt chọn người tài giỏi. Ngươi cùng Ngô Vỵ đã được cân nhắc lên hàng á khanh, biết thì thưa thốt, sao  lại khoanh tay chỉ biết dạ dạ vâng vâng". Niềm u uất này kéo dài cho đến tận chết. Trước khi qua đời, vì bị nhiễm bệnh dịch tả từ Xiêm (Thái Lan) truyền sang, Nguyễn Du sai người nhà sờ lên người ông. Người nhà thưa : "Đã lạnh đến đầu gối". Ông bảo "Được, được" rồi tắt thở, không trối lại điều gì. Ông chết trong cô đơn không ai vấn tang, đưa tang, lấy cớ sợ bệnh truyền nhiễm. Vua Minh Mệnh chỉ đưa đồ phúng, không viếng. Mạn tang, Nguyễn Ngữ - người con trai thứ 4 đưa hài cốt cha về táng dưới chân núi Hồng.
(3)                Chi tiết này có chép trong Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền











LỜI BÌNH CHÚ 
CỦA TÁC GIẢ : 

Phần tư tưởng cốt tủy chi phối toàn bộ Truyện Kiều của Nguyễn Du là chữ “tiết” của nho gia.
Tuy chỉ là một võ quan nhỏ tập ấm với người cha nuôi họ Hà biên trấn ở Thái Nguyên sau khi đỗ tú tài, Nguyễn Du vẫn nghiễm nhiên là cựu thần nhà Lê. Người đã từng trốn ra Bắc theo Lê Chiêu Thống sang Tàu phục quốc, nhưng không thành, bị quan quân nhà Tây Sơn tống ngục. May nhờ người anh trai đã cộng tác với chính quyền mới nên thoát nạn. Nguyễn mai danh ẩn tích dưới lốt “Hồng Sơn liệp hộ”(phường săn  núi Hồng). Vì Nguyễn Du là chú ruột một bà phi (1) vua Gia Long, vào hàng quốc trượng của nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tuần thú ra Bắc, người buộc phải đón và theo phò giá Gia Long, được Gia Long bổ nhiệm đặc cách luôn làm tri huyện Phù Dung (Phù Cừ, Hưng Yên) (chức vụ này thường giao cho các cử nhân trong lúc Nguyễn Du chỉ mới đỗ tú tài); rồi người được đặc cách phong làm cai bạ Quảng Bình, vời về triều đặc cách làm đến tham tri bộ Lễ, được cử làm chánh sứ những hai lần. “Vị cựu thần nhà Lê - Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn - Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời !?”. Phải nói là hoạn lộ thẳng băng, nhưng Nguyễn đau lắm, đau nỗi đau của nhà nho thất tiết. Trong danh phận “hàng thần lơ láo”, bạn đồng liêu quay mặt bỉ báng, kẻ sĩ Bắc Hà
khinh rẻ, Nguyễn sống trong cô độc buồn nản. Phải ngồi trên lưng cọp, tiến thoái  lưỡng nan “Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ tiết - Giữ vững tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời ?” Kẻ sĩ thức thời  như Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích trước đó thì điềm nhiên vận triều phục mới ung dung bước thẳng vào tân trào Tây Sơn cộng tác với một chính thể mới tiến bộ là một nhẽ. Đằng này, Nguyễn bị ràng buộc quá sâu sắc bởi chữ “tiết” nên từ bỏ nó đâu dễ một sớm một chiều. Thế là phải đánh vật với nỗi đau, u uất đến tận khi chết “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa” là nỗi đau máu thịt có thật của Kiều hay chính Nguyễn Du ? Điều tâm sự này phổ vào tập Thanh Hiên thi tậpNam trung tạp ngâm khá đậm, nhất là bài “Long thành cầm giả ca” nuối tiếc ngậm ngùi cho triều Tây Sơn cũ trong vô vọng qua số phận tiều tụy của một ca nương.
Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai”, mà nói ra được cũng dễ gì có ai thèm nghe, ai thèm thông cảm cho. Tâm sự đắng chát đó liền bắt gặp tần số cộng hưởng với cuộc đời ba đào của nàng Kiều. “Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi - Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều. Theo quan điểm Khổng Mạnh, vấn đề cốt tử, với người đàn bà là chữ “trinh”, với người đàn ông là chữ “tiết”. Thân thế thì khác nhau nhưng số phận thì giống nhau. Hai ta đều là điếm cả thôi mà, một bên là đĩ thể xác một bên là điếm linh hồn. Vâng, làm đĩ điếm bất đắc dĩ “Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. Đĩ là đĩ thể xác, còn tinh thần thì lại rất trinh trắng. Tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không thờ hai chồng. Thế là từ một chuyện lá cải Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã biến thành một kiệt tác qua bàn tay tái tạo của người thợ trời (2) với sứ mệnh giãi bày chữ tiết của mình cùng hậu thế, là cách tốt nhất để chiêu tuyết cho mình trước những sàm báng của thế nhân về thân phận bất đắc dĩ phải làm điếm chính trị của mình. Bi kịch của Nguyễn Du là bi kịch của một nho sĩ suốt đời không thể tìm ra được phương hướng. Chính nỗi đau phát phẫn trước thư trong khi viết tiểu sử cho chính mình, Nguyễn đã làm nên tập đại thành “kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm” (Nhữ Bá Sĩ) (3). Truyện Kiềutự truyện tâm linh của Nguyễn Du bởi trữ tình chân chính bao giờ cũng mang tính chất tự truyện là vậy.


 




Năm 1999, từ Sài Gòn, tôi lại hành hương về Tiên Điền cố hương viếng ông Tổ của văn chương Việt. Cùng đi có bạn thơ Xuân Hoài, lúc đó là Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin. Chúng tôi thắp hương trước mộ người. Tôi khấn “Thưa cụ, cụ viết Truyện Kiều cho ai ?”. Trong trầm trầm hương khói, tôi nghe rõ âm thanh tuy rất nhỏ  “Tôi viết cho tôi”. Trúng ý tôi rồi. Thế là từ mộ Nguyễn Du lên mộ Hải Thượng Lãn ông ở Hương Sơn, ngồi trên ô tô tôi lẩm nhẩm thành lời. Xuống xe, tôi chép lại với lời đề tặng bạn thơ Xuân Hoài. Xuân Hoài đem về đăng vào báo Hà Tĩnh cuối tuần. Mấy năm sau, tôi đưa cho Gia Dũng. Đọc xong, Gia Dũng lắc đầu. Bế Kiến Quốc đến chơi nhà, tôi đưa cho nhà thơ lúc ấy là tổ trưởng thơ báo Văn Nghệ. Bế Kiến Quốc tần ngần “quyết định đăng hay không lại ở người khác”. Hoàng Liên càm ràm “thôi dẹp đi ông, quan điểm tréo ngoeo cẳng ngỗng với tư tưởng chính thống ai người ta chấp nhận cho”. Tôi lén gửi báo nhà chùa Giác Ngộ. Mấy sư đăng ngay với tít mới  “Nghĩ tưởng bên mồ Nguyển Du” cùng bức ảnh chúng tôi đứng thắp hương trước mộ người. Rồi tờ web Khởi Nguồn ở Hoa Kỳ xin bài, tôi gửi họ, được đăng liền với bài trí rất trang trọng, được bạn đọc bốn phương ở hải ngoại đồng cảm đồng thuận suốt 5 năm qua. Và, khi Hội đồng biên tập làm cuốn 700 năm thơ Huế, cùng với bài Tạ lỗi cố nhân, bài Tâm sự Nguyễn Du được đưa vào tuyển tập sang trọng này. 
Mùa hè năm 2005, tôi sang Trung Quốc, đến Vô Tích, Lâm Tri, Hàng Châu…”nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương của đời Kiều luân lạc. Tôi đã tìm đến nghiêng mình bên bờ sông Tiền Đường “ầm ầm tiếng sóng” nơi Kiều trầm mình. Tôi bồi hồi lần theo dấu vết Nguyễn Du cách đó 175 năm (2005) đã từng đi sứ qua đây : Nguyễn thăm miếu thờ người anh hùng dân tộc Nhạc Phi, viếng Hàn San tự cổ kính với tiếng chuông nửa đêm nghìn năm còn vang vọng, người đề thơ bên tượng gian thần Tần Cối… Có điều khác nhau : Nguyễn là chánh sứ đi công du, Thái mỗ tôi là Phó Thường Dân Nam Bộ đi tư du. Nguyễn đi bộ, đi thuyền, đi ngựa mất 3 tháng rưỡi; Thái tôi cưỡi máy bay lướt gió mây mất chỉ có 4 tiếng từ Sài Gòn sang.
Những lúc trà dư tửu hậu, tôi thường đem chuyện Nguyễn Du viết Kiều ra nói, được khá nhiều bậc trí tán thưởng (4). Tôi nghĩ đã đến lúc, chúng ta nên có lòng tự trọng và thật sự cầu thị xét lại văn học cổ điển theo quan điểm mới, trả Céza về cho Céza chứ không nên ra rả trên bục giảng nhồi nhét vào óc con trẻ “Nguyễn Du đã đứng về phía quần chúng lao khổ bênh vực cho quyền sống, quyền làm người của họ”, “Nguyễn Du là người phát ngôn cho quyền lợi của nhân dân lao động”, “Nguyễn Du tố cáo chế độ phong kiến thối nát chà đạp lên số phận con người”… theo tinh thần văn học phục vụ chính trị. Đành rằng mang một trái tim lớn của nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du đã đồng cảm trùm tình thương xuống cõi nhân gian khốn khổ này. Chính nhà phê bình Hoài Thanh giảng Kiều rất hay nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều”, mà không dấn lên thêm được bước nào khai sáng cho vấn đề vì sao Nguyễn Du viết truyện Kiều !? Trong văn học cổ điển thường thì tư tưởng tác phẩm lớn hơn tư tưởng tác giả. Nhưng dẫu sao thực sự đây lại là lời Nguyễn làm trạng sư tự bào chữa hùng hồn, kín đáo và nghiêm túc nhất trước cái bất nhẫn của cuộc đời đối cho ông. Giảng Truyện Kiều và Nguyễn Du như xưa nay chỉ hớt ngọn thôi, không đi đến tận gốc của vấn đề. Đối với chuyện văn chương nghìn năm thiên cổ sự, việc sửa sai không bao giờ muộn cả. Đó là trách nhiệm của chúng ta với muôn đời hậu thế. Xin đừng làm Nguyễn Du buồn đau thêm nữa ! Xin đừng tiếp tục ru ngủ con cháu chúng ta bằng cái sai lầm tai quái như thế nữa!
Với cốt cách sáng trong đàng hoàng, tôi cũng xin thành khẩn tạ lỗi Bộ Giáo dục, dẫu ăn lương của ngành, suốt 30 năm đứng lớp (1959-1989), tôi đã giảng cho học sinh từ trung học đến đại học tinh thần của Truyện Kiều và Nguyễn Du trái hoàn toàn với sách giáo khoa – pháp lệnh của nhà nước.
Là người nghiên cứu  văn học, đã từ lâu tôi không quan tâm lắm đến câu cảm thán “Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” như hầu hết mọi nhà nghiên cứu từng xuýt xoa mà chỉ chú ý đến câu thơ nhỏ nhoi định  mệnh “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” lẩn quất trong thơ chữ Hán của người.Từ đó phăn nó ra…

Sydney, 29-7-2010
THÁI DOÃN HIỂU
Nguồn : Tạp chí  SÔNG HƯƠNG  SỒ 260 (10-2010)





(1) Tức phi tần Nguyễn Thị Uyên, con gái Nguyễn Trừ (1760-1809) tri phủ Nam Sách - anh trai thứ 5 của Nguyễn Du. Nguyễn Trừ là con bà trắc thất thứ 5  Nguyễn Thị Xuân (quê Tiêu Sơn, Tương Giang, Bắc Ninh) của Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Trừ ở lại quê ngoại không về Tiên Điền, lập ra một chi nhánh  họ Nguyễn ở Bắc Ninh.

(2)Trong giao lưu văn hóa nhân loại, việc vay mượn đề tài, chủ đề, cốt truyện, điển cố, ngôn ngữ… là việc bình thường. Sếchxpia chẳng đã từng mượn đề tài từ Đan Mạch cổ xưa để viết Hămlét bất hủ, mượn truyện Ý để viết nên tình sử Rômêô và Juyliét sống mãi đó sao ? Nguyễn Du mượn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân viết Truyện Kiều, cũng như kiến trúc sư Nguyễn An tù nhân quân Nguyên Mông đời Trần thiết kế ra quần thể Thiên An Môn hoành tráng; cũng như Mạc Đỉnh Chi đời Trần Anh Tông đi sứ Yên Kinh (Bắc Kinh) sang Bình Nhưỡng lấy cháu gái sứ thần Cao Ly đẻ ra một dòng ở bên ấy  năm 1213 - vay cả dòng máu thì sao ?  (Xem thêm GIAI THOẠI KẺ SĨ VIỆT NAM của Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên, nxb Văn hóa - Dân tộc, Hà Nội 1997, trang 314)

(3)Trong việc viết Truyên Kiều, truyền thuyết kể rằng, mỗi lần quan Hầu Nguyễn Tiên Điền ra Thăng Long thường gối đầu lên đùi cô đào Xuyến nghe nàng “lẩy” từng câu Kiều và hai người chuốt lại từng chữ cho thật óng ả mới thôi. Cô đào Xuyến là người lịch lãm có trình độ thẩm văn cao.Tác giả Truyên Kiều nếu nói ra cho thật minh bạch  thì phải đề là NGUYỄN DU – CÔ ĐÀO XUYẾN, (cũng như thuyết Tương đối một phát minh vĩ đại thế kỷ XX của Anhxtanh, cần phải công bằng ghi tên bà vợ ông là đồng tác giả). Lối “lẩy” Kiều là lối diễn ngâm độc đáo do cô đào Xuyến chế tác ra.



MỘT SỐ NHẬN XÉT
VỀ TÂM SỰ NGUYỄN DU
CỦA THÁI DOÃN HIỂU

Anh Thái Doãn Hiểu thân mến,

Tôi đã đọc bài "Phản biện sự phản biện" của anh, lần đầu tiên trong đời có cảm giác được đứng bên cạnh một con sư tử. Cảm giác vui nhất của tôi dịp mừng thọ này là biết rằng từ nay bên cạnh có anh,  đúng là trời cho!

Bài thơ "Tâm sự Nguyễn Du” và lời bình là tuyệt vời. Tôi ngả mũ chào Thái Doãn Hiểu, người em, người bạn văn thân quý của tôi. Với một tư duy sắc nhạy, táo bạo, trong giới cầm bút cổ kim, anh là người đầu tiên gọi Nguyễn Du là "cậu ấm". Thái Doãn Hiểu là người đầu tiên có ý thức bình đẳng với Nguyễn Du khi cầm bút trân trọng viết về thiên tài tuyệt bút này. Trong văn nghệ, "tuyệt đối bình đẳng" là lẽ sống còn...Các Đảng Cộng Sản đều thất bại trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật vì không ý thức được cái lẽ sống còn này. Đa số những người cầm bút nước ta không vượt qua được sự rụi rọ, tầm thường vì họ được giáo dục để không bao giờ nghĩ đến sự bình đẳng này.

Hà Nội 16-8-2010
HOÀNG NGỌC HIẾN


Anh Hiểu thân,
Tôi chia sẻ quan điểm của anh về Truyện Kiều và tấm lòng cô trung của Nguyễn Du.
Ý kiến này tôi đã được nghe từ hồi học thi Tú tài tại Sài Gòn. Các thầy dạy Văn và Triết học Nguyễn Sỹ Tế và Lữ Hồ của tôi thường viết và nói trên bục giảng quan điểm ấy.
Tôi đã từng làm luận văn về đề tài này và thầy Lữ Hồ rất ưng ý cho 16/20 với lời bình : văn trôi chảy, ý tưởng dồi dào...
Những thầy này có lẽ di tản rồi, sống chết ra sao tôi không biết. Thắm thoát đã 53 năm!
Cũng có người bảo nhân vật Từ Hải trong Kiều có cái gì thể hiện nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ (Dọc ngang nào biết trên đầu có ai). Nhưng ý tưởng này mâu thuẫn với thực tế là Nguyễn Du đã từng tham gia phong trào chống Tây Sơn...
Ngoài ra quan điểm chính thống của nhà cầm quyền hiện nay về Truyện Kiều, quan điểm đấu tranh giai cấp tuy có hơi khập khểnh nhưng tôi nghĩ cũng không tác hại gì.
Một tác phẩm lớn luôn luôn chứa chất nhiều khía cạnh và những suy diễn đa chiều là điều không thể tránh được...
Chúc anh vui, Hưng.

GSTS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG
(Đại học Liège, Vương quốc Bỉ)


Kính gửi anh  Thái Doãn Hiểu.  
Em đã đọc Tâm sự Nguy
ễn Du. Một điều em thán phục và kính trọng anh: Suốt 30 năm đứng bục giảng, anh đã dũng cảm dám đối mặt với sự thật, không sợ trở ngại, thậm chí còn nguy hiểm đến cả bản thân. Anh đã giảng cho học trò hiểu ra sự thật này:  Nguyễn Du chính là Kiều, Kiều chính là Nguyễn Du. Ông đã dùng ngòi bút thiên tài để chiêu tuyết cho mình, dám đấu tranh cho công lý, tố cáo tội ác một xã hội  
thối nát. Trong khi đó, nhiều người cầm bút, có đủ tri thức và cặp mắt tinh,  nhưng không đủ gan nên không dám nói thẳng nói thật.
Cuộc sống to lớn, biến hóa sinh động muôn hình ngàn vẻ thì tại sao lại sợ sự thật, vì họ chưa có trách nhiệm chăng ?


THÚY NGOAN
(Hội LHVHNT Hải Phòng)

Bài viết thật thâm hậu dành cho các bậc trí, không phải ai cũng hiểu được.  Dân Nghệ các anh thật đáng sợ.

TRẦN MẠNH HẢO
(Nhà phê bình văn học)

Tôi rất thích “Tâm sự Nguyễn Du”, đem in từ blog ra nhiều bản đem tặng các bạn Đại học Bách khoa. Nhiều người cũng thích và tán thành ý tưởng mới mẻ về Nguyễn Du và Truyện Kiều của anh như tôi.

Giáo sư, Viện sĩ VŨ ĐÌNH HUY
(Đại học Bách khoa Tp Hồ Chí Minh)


Thân gửi Anh Hiểu.
Lâu nay tôi hay đọc của Anh. Hôm đọc được bài về Tâm sự Nguyễn Du, tôi thích lắm vì lạ. Bởi nó khác hẳn những gì tôi học ở trường, đọc các nhà nghiên cứu khác như Lê Đình Kỵ, Hoài Thanh, Nguyễn Quảng Tuân...Người ta cứ nói Nguyễn Du viết Kiều để tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, nhân cách cao cả, tiết hạnh sáng ngời! Ngay cả Tổ chức quốc tế về khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc UNESCO cũng tôn vinh Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới nhân 200 năm ngày sinh của Ông  (năm 1965) cũng chủ yếu vì nội dung này... Té ra không phải thế !?
Tôi cứ băn khoăn... Và tôi đã đọc lại. Tôi hiểu thế này, Anh Hiểu ạ:
    1- Nguyễn Du, dòng dõi cựu thần nhà Lê, ra làm quan nhà Nguyễn là phạm vào điều tối kị của giáo lí Nho học: Bất trung. (Trai trung không thờ hai chúa, "Trai thời trung hiếu làm đầu" - Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu).
    2- Kiều mấy lần lấy chồng ( Đã hứa hôn với Kim Trọng nhưng buộc phải bán mình lấy (nhầm) Mã Giám sinh, rồi đi theo Sở Khanh, lại lấy Thúc Kỳ Tâm, rồi lấy Từ Hải) cũng phạm vào điều tối kị của giáo lí Nho học: Thất tiết. (Gái ngoan không lấy hai chồng, "Gái thời tiết hạnh là câu trau mình" - Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu).
     3- Nguyễn Du ra làm quan vì không dám chống lại sự "điều động" của nhà Nguyễn. Tội khi quân này có thể bị tru di tam tộc. Kiều lấy chồng nhiều lần là để cứu cha, cứu em trai, để mong thoát khỏi cảnh bị đọa đày. Qua cuộc đời Kiều, người ta hiểu và thông cảm cho Nguyễn Du. Như vậy Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh là để dốc bầu tâm sự của mình, để thoát cảnh bị dày vò "Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ".
   Nhưng tôi thấy cái lí lẽ "tố cáo chế độ..." vẫn nghe được, Anh Hiểu ạ. Hay sự "tố cáo" ấy độc lập với ý muốn của Nguyễn Du?
  
         …Tôi lại vừa đọc lại Tâm sự Nguyễn Du. Những lí giải của Anh đã thuyết phục tôi trong kết luận  “Thế là từ một chuyện lá cải Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã biến thành một kiệt tác qua bàn tay tái tạo của người thợ trời với sứ mệnh giãi bày chữ tiết của mình cùng hậu thế, là cách tốt nhất để chiêu tuyết cho mình trước những sàm báng của thế nhân về thân phận bất đắc dĩ phải làm điếm chính trị của mình. Bi kịch của Nguyễn Du là bi kịch của một nho sĩ suốt đời không thể tìm ra được phương hướng. Chính nỗi đau phát phẫn trước thư trong khi viết tiểu sử cho chính mình, Nguyễn đã làm nên tập đại thành “kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm” (Nhữ Bá Sĩ). Truyện Kiềutự truyện tâm linh của Nguyễn Du bởi trữ tình chân chính bao giờ cũng mang tính chất tự truyện là vậy”.

Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh là để giãi bày tâm sự, để cho người đời thông cảm và hiểu Ông. Ừ, mà phải rồi. Nguyễn Du "tố cáo chế độ phong kiến mà làm gì nhỉ? Vì chính chế độ này đã làm cho Ông và gia tộc Ông lên đến đỉnh cao quyền lực, danh lợi, vinh hoa. Mà thời Nguyễn Du chắc gì có khái niệm "tố cáo", "chế độ".
     Tuy vậy, có một điều tôi chưa hiểu khi thấy Anh viết rằng khi nghiên cứu để rút ra kết luận này, Anh chỉ chú tâm vào câu thơ định mệnh của Nguyễn Du "Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngứ" mà không quan tâm lắm đến câu thơ cảm thán "Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như".   Tôi nghĩ câu này cũng chứng minh một cách rất thuyết phục rằng Nguyễn Du viết Kiều là để giãi bày tâm sự.
      Chúng ta biết khi Nguyễn Du đi sứ, Ông có được Độc Tiểu Thanh ký. Tuy chỉ được đọc phần sót lại (Dư phần tập) nhưng qua đó Nguyễn Du đã hiểu được tâm sự của Tiểu Thanh, thấy được cuộc đời đau khổ của nàng sau khi buộc phải "xuất giá" làm lẽ mọn. Và Nguyễn Du đã rơi lệ. Và Ông liên tưởng đến cảnh ngộ của mình, rồi tự hỏi "Không biết  300 năm lẻ nữa - Người đời ai khóc Tố Như chăng?".(Vì khi Ông đọc Tiểu Thanh thì nàng đã chết được hơn 300 năm rồi)
      Khóc cho Nguyễn Du thì phải hiểu được cuộc đời đầy bi kịch của Ông chứ. Hiểu Ông qua cái gì Ông để lại? Tôi nghĩ chỉ có Đoạn trường tân thanh. Vậy qua câu " thắc mắc" trên của Nguyễn Du ta thấy một cách khá rõ là Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh cho chính Ông như Anh đã kết luận. Viết cho người đời sau đọc để may chi họ hiểu Ông mà thương cảm, than khóc cho nỗi oan khuất thống khổ của mình! giải oan cho mình !
    Vì vậy khi thấy Anh nói không quan tâm đến câu "Bất tri....khấp Tố Như" mà chỉ phăn từ một câu "Ngã hữu thốn tâm..." rồi rút ra kết luận gai góc là Nguyễn Du viết Truyện Kiều cho chính Ông là hơi...cực đoan một tí.
    Tôi xin nói thêm là trong Bắc hành tạp lục  viết sau khi đi sứ về, không thấy Nguyễn Du nói là có được đọc Kim Vân Kiều truyện  của Thanh Tâm Tài Nhân. Vậy Đoạn trường tân thanh đã được viết trước khi đi sứ. Và vì thế mới có câu "thắc mắc" trên khi Ông đọc Tiểu Thanh. Việc Ông viết Đoạn trường tân thanh trước khi đi sứ thì một số nhà nghiên cứu đã nêu ra. Những người này nói rằng, họ Nguyễn Huy ở Can Lộc có một thư viện rất lớn, các văn nhân đến đọc rất nhiều. Trong số đó, có các văn nhân họ Nguyễn ở Tiên Điền. Có thể Nguyễn Du đã đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở đây. Từ cốt truyện đó, Ông viết nên kiệt tác Đoạn trường tân thanh. 
   Tôi cứ mạnh dạn nêu những băn khoăn của mình khi đọc Anh để có điều kiện Anh lí giải cho, nếu có gì Anh thông cảm nhé. Chúc Anh, Hoàng Liên và các cháu mọi sự tốt lành.

Hà Nội, 8-10-2010
Thân ái                                                                                            
TỪ ANH TUẤN 
(Bộ Ngoại giao)


Thái Doãn Hiểu coi Nguyễn Du viết Kiều là để chiêu tuyết cho cái danh tiết thờ hai vua của ông, đặt trong tương quan với chữ trinh của nàng Kiều, thì cũng đúng như ta hiểu mục đích của Tố Hữu viết Con cá chột nưa, Hồ Chí Minh viết Nhật ký trong tù…Đúng, nhưng nếu chỉ giảng cho học trò có thế thì không khéo ông lại bác truất cái dung tục này bằng một kiểu dung tục khác, mục đích của Nguyễn Du không chỉ có thế. Các thầy giáo của chúng tôi dạy cho chúng tôi về những điều ông nói chỉ vài phút, còn khoảng 85 phút kia thì tập trung phân tích về cái đẹp, về thân phận người phải gánh trên vai cái gánh nặng Hiếu - Trinh, về các tính cách nhân vật và văn chương của Nguyễn. Vanvn.net xét thấy cần ghi chú như vậy, trước khi để tác phẩm thơ và lời bình chú của Thái Doãn Hiểu đến với bạn đọc…

HỘI NHÀ VĂN VIÊT NAM
            (vanvn.net)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét