TỪ PHẢI:
NGUYỄN TRÃI - NGUYỄN THỊ LỘ
SAO LẠI NÓI
LỜI PHẢN NGHỊCH
Vụ án Lệ Chi Viên từ khi xảy ra
đến nay luôn là nỗi đau xót của lịch sử. Mặc dù chỉ
vài chục năm sau vua Lê Thánh Tông đã phong quan tước cho
Nguyễn Anh Vũ, con trai công thần Nguyễn Trãi, như là một
sự minh oan nhưng án quyết không được chính thức sửa
lại. Những năm gần đây, Nguyễn Trãi được tôn vinh là
danh nhân văn hóa thì không ít người đòi xét lại vụ
án và có nhiều ý kiến đổ diệt tội giết vua cho thái
hậu Nguyễn Thị Anh, người thay quyền nhiếp chính đã
đồng ý bản luận tội của triều đình sát hại gia tộc
Nguyễn Trãi. Nghĩa là người đi kết án lại trở thành
tội đồ chính. Ta có thể điểm qua một số ý kiến thuộc
loại này đã đăng trên sách, báo.
Từ điển mở Wikipedia dẫn nguồn chủ yếu ở sách “Nhìn lại
lịch sử” của các tác giả Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh
Công Vĩ viết: “Một số nhà nghiên cứu cho rằng thái
tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con
vua Lê Thái Tông và Nguyễn Thị Anh là người chủ mưu sát
hại vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên
năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Tuy
nhiên, có lời dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh đã có thai
trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái
Tông. Trước khi vào cung làm vợ Thái Tông, bà đã gian díu
với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc chi dưới của Lê
Khoáng
- ông nội Thái Tông. Từ khi bà gặp Thái Tông tới khi sinh Bang Cơ, thời gian chỉ có 6 tháng”.
- ông nội Thái Tông. Từ khi bà gặp Thái Tông tới khi sinh Bang Cơ, thời gian chỉ có 6 tháng”.
Báo Pháp lí điện tử có bài “Hậu cung và những cuộc thanh trừng, thao túng của các
bà hoàng” có nội dung gần giống bài “Thủ đoạn độc ác “đoạt” ngôi vua của bà hoàng
Nguyễn Thị Anh” tuy dẫn nguồn sách “Đại Việt
sử kí toàn thư” nhưng không đúng tinh thần văn bản theo
mục đích viết lối giật gân, sai sự thực lịch sử,
gần giống nội dung Từ điển mở Wikipedia trên đây.
Điều đáng nói là phần lập luận chính của
những bài viết sai trái ở trên lại dựa vào những tư
liệu hoặc là thiếu xác thực, hoặc là những lời lẽ
của kẻ phản nghịch đã bị lịch sử trừng trị.
CÔN SƠN
Với cách viết mập mờ “Một số nhà nghiên
cứu cho rằng” có nghĩa là chả có ai cụ thể cả ngoài
chính người viết. Còn theo nguồn sách dẫn “Nhìn lại
lịch sử” thì “một số” đó chính là nhóm tác giả
Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ. Nguồn của sách “Nhìn
lại lịch sử” lại dựa vào Gia phả họ Đinh có mấy
bài thơ nói lái được cho là của Thái phó Đinh Liệt lại
rất đáng ngờ. Cái đáng ngờ là: cuốn gia phả này có
đúng là viết từ thời Lê Thánh Tông không, có đúng thơ
của Đinh Liệt không. Cho dù là đúng thì gia phả không
thể được coi là tư liệu chính thống để tin những gì
viết mập mờ trong đó (thơ nói lái) là sự thực được.
Chưa kể đặc trưng thơ được phép hư cấu. Hơn nữa,
nội dung thơ nói lái lại là một thứ lời lẽ phản nghịch,
tội diệt tộc, lẽ nào người ta dại dột chép vào gia
phả. Và đã là lời lẽ phản nghịch sao lại tin để xuyên
tạc lịch sử. Một trong những bài thơ nói lái đã được
gian lận diễn ra thành tư liệu lịch sử là: “Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa/Bất thức hà nhân chủng
bảo đa/Chủ kháo tống thai vi linh được/Cựu binh tân tửu
thịnh y khoa”. Chữ nói lái: nhung tân - Nhân Tông;
tống thai - Thái Tông; thịnh y - Thị Anh. Bài thơ đã được
dịch: “Nhân
Tông sáu tháng đã ra hoa/Dòng máu ai đây quý báu à/Núp
bóng Thái Tông làm linh được/Thị Anh dùng ngón đổi dòng
cha”.
1, Trước hết phải khẳng định ngay hoàng
phi Nguyễn Thị Anh không thể là người giết vua.
Lịch sử không nói rõ thân thế Nguyễn
Thị Anh và cũng không nói rõ bà được tuyển vào cung khi
nào, trước và sau khi sinh ra hoàng tử Bang Cơ thì đã được
phong cấp gì ở hậu cung. Người đứng đầu hậu cung trước
đó là nguyên phi Lê Ngọc Dao, con gái đại tư đồ Lê Sát,
người giữ quyền tể tướng. Cha con Lê Sát thế lực như
vậy còn bị nhà vua trị tội. Đến Huệ phi Lê Nhật Lệ
con gái đại đô đốc Lê Ngân, người thay Lê Sát giữ
quyền tể tướng cũng bị nhà vua trị tội. Hoàng phi Dương
Thị Bí sinh được hoàng tử Nghi Dân, từng được lập
làm thái tử nhưng vì mẹ không có đức tốt mà cả mẹ
lẫn con đều bị giáng chức. Một vị vua trẻ tuổi, nghiêm
khắc với hậu cung như vậy thì làm sao vợ con có thể
vượt quyền lạm việc chính sự được. Không những thế,
nhà vua còn ra lệnh “bắt giam hạng đàn bà ngỗ nghịch, đó là làm theo kế
của Nguyễn Thị Lộ” (ĐVSKTT). Với những công thần
khai quốc uy quyền đầy triều như Lê Sát, Lê Ngân vua còn
trị được thì một người đàn bà trẻ ở hậu cung không
vây cánh thế lực thì làm được gì với vị vua - người
chồng của mình. Ngay cái chết của vua lại ở nơi khác,
xung quanh có đoàn vệ sĩ theo hầu chứ đâu phải chết
nơi hậu cung mà người viết ác ý dựng đứng lên mưu
mày mưu nọ đổ vấy cho bà hoàng trẻ đang được súng
ái và mới sinh thái tử được hơn một năm.
2, Hoàng phi Nguyễn Thị Anh không thể có con
với người khác ngoài nhà vua. Theo quy định tuyển cung
nữ rất nghiêm ngặt của triều đình thì việc đưa con
gái thất trinh vào cung là tội diệt tộc thì ai dám phạm,
và có muốn phạm cũng rất khó khăn. Việc vua ngủ với
cung nữ nào đều được thái giám biên chép cụ thể nên
không thể giấu được triều đình khi có thai. Thực tế
có trường hợp đẻ non, kinh nghiệm dân gian nếu con trai
đẻ non 7 tháng mà được chăm sóc chu đáo vẫn sống bình
thường. Giả sử hoàng phi Nguyễn Thị Anh đẻ non hoàng
tử Bang Cơ thì với điều kiện đế vương không vấn đề
gì. Đến thời điểm lập thái tử, vua Lê Thái Tông đã
có 3 con trai, hai người con đều được phong vương cùng:
Bang Cơ là thái tử, Nghi Dân là lạng Sơn vương, Khắc Xương
là Tân Bình vương. Người con trai thứ tư mới sinh được
một tuần thì vua đi kinh lí miền đông và mất trên đường
về kinh nên chưa kịp phong vương, sau đó 3 năm đã được
vua Nhân Tông (có thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính)
đã phong là Bình Nguyên vương. Quan hệ giữa vua Lê Thái
Tông với các con, giữa vua Lê Nhân Tông với anh em trai rất
hài hòa, phù hợp lễ nghĩa hậu đãi. Điều đáng lư ý
nữa là người tuyên chiếu phong lập thái tử lại do chính
Đinh Liệt làm; Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) viết: Ngày 16/11/1441.
Lập thái tử Bang Cơ. Chiếu viết: “Đặt thái tử để
vững gốc rễ, lập con đích để chính danh phận. Đó là
mưu xa của xã tắc, kế lớn của quốc gia. Hoàng tử Bang
Cơ thể chất vàng ngọc, tư thái anh minh, vừa có uy vọng
của một bậc quân vương, lại đúng là danh phận con đích
tôn quý. Vậy sai Nhập sai nhập nội Đại đô đốc Lê
Liệt mang sắc mệnh lập làm hoàng thái tử”. Giai
đoạn thái hậu nhiếp chính và vua Lê Nhân Tông trị vì
được sử gia Phan Phu Tiên đánh giá trong ĐVSKTT như sau:
“Nhân Tông
lên nối ngôi vào tuổi ấu thơ, bên trong có mẫu hậu buông
rèm trông coi chính sự, bên ngoài có các đại thần đồng
lòng phò tá trị nước, cho nên trong khoảng 17 năm thiên
hạ thái bình, an cư lạc nghiệp, xứng đáng là vua nhân
từ”.
3, Phải chăng Đinh Liệt là người bảo trợ
thế lực phản nghịch Lạng Sơn vương vì những toan tính
cá nhân?
Đinh Liệt cùng anh ruột Đinh Lễ là cháu gọi
Lê Thái Tổ là cậu, tham gia khởi nghĩa từ sớm và trở
thành tướng giỏi của nghĩa quân Lam Sơn. Đinh Lễ hi sinh
trong thời gian vây thành Đông Quan. Khi bình công Đinh Liệt
được xếp hàng cao thượng huyện hầu. Đinh Liệt được
vua Lê Thái Tông tin cậy giao cho việc tuyên lập thái tử,
giao cho chức Thái phó (dạy thái tử). Sau khi vua Lê Thái
Tông mất đột ngột ngày 4/8/1442, đến ngày 12/8/1442 Đinh
Liệt lại cùng các đại thần Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê
Thụ, Lê Bôi lập thái tử Bang Cơ nối ngôi. Như vậy trong
hoàn cảnh lúc ấy Đinh Liệt đáng là chỗ dựa chính của
thái hậu Nguyễn Thị Anh để ở ngôi tể tướng, nhưng
thái hậu đã chọn Trịnh Khả. Bởi khi vua Lê Thái Tông
còn tại vị đã tin cậy và dựa vào lòng chính trực của
vị đại thần này để trừ bỏ quyền thần Lê Sát và
sau đó là Lê Ngân. Ngay khi vua đưa Trịnh Khả vào nắm
cấm quân Lê Sát đã biết khó toàn tính mạng. Việc thái
hậu dựa vào Trịnh Khả là hoàn toàn sáng suốt. Hẳn vì
điều đó mà Đinh Liệt sinh lòng oán hận, cư xử có khi
không đúng mực trong triều nên ít lâu sau đã bị bắt
giam. Oán hận chồng oán hận nên sau khi được phục hồi
chức vị, Đinh Liệt đã có tác động làm cho thái hậu
lệch hướng dẫn đến việc sát hại hai trụ cột Trịnh
Khả và Trịnh Khắc Phục, từ đó nhờ có thế lực ngầm
bảo trợ mà Lạng Sơn vương Nghi Dân đã dễ dàng giết
vua Nhân Tông đoạt ngôi.
Hành động tiếm ngôi của Lạng Sơn vương
Nghi Dân phù hợp với sự lo xa của vua Lê Thái Tông khi
cho rằng mẹ (Dương Thị Bí) không ra gì thì con tất cũng
không ra gì nên phế ngôi thái tử khi còn nhỏ của Nghi
Dân. ĐVSKTT viết: “Tháng 3/1441. Giáng Dương Thị Bí làm thứ dân. Trước
đây Dương Thị Bí sinh con là Nghi Dân (tháng 10/1439). Vua
lập làm thái tử (ngày 21/1/1440). Dương Thị Bí cậy thế
càng lăng loàn kiêu căng. Vua vẫn nín nhịn bao dung, giáng
xuống làm Chiêu nghi, muốn cho thị sửa bỏ lỗi lầm. Nhưng
Dương Thị Bí lại càng hằn học trong lòng, không kiêng
nể gì nữa. Vua cho là Dương Thị Bí đã cố tình như vậy
thì con thị đẻ ra chưa chắc đã là người khá, mới giáng
xuống làm người đàn bà thường, rồi xuống chiếu nói
cho thiên hạ biết là ngôi thái tử chưa định”.
4, Sự gian lận trong trích dẫn nguồn sử liệu
chính thống trong các bài viết gần đây có tính xuyên tạc
lịch sử, bôi nhọ thái hậu Nguyễn Thị Anh với mục đích
giật gân là ở chỗ cố tình bỏ đi chữ “ngụy viết” để khẳng định sử sách cũ tuy trích
dẫn nguyên văn nhưng đã cho biết nguồn là sai trái. Đó
là khi trích dẫn chiếu lên ngôi của Lạng Sơn vương một
cách bất chính, phản nghịch. Thậm chí lời chiếu còn
thể hiện Nghi Dân là kẻ loạn thần tặc tử rõ ràng khi
cố tình viết ngược lại lời chiếu lập thái tử Bang
Cơ của vua cha Lê Thái Tông. ĐVSKTT viết: 7/10/1459. Lạng Sơn vương Nghi Dân tự lập làm vua. Bài
văn đại xá ngụy viết rằng: “Trẫm là con trưởng của
Thái Tông Văn hoàng đế, trước đây đã được giữ ngôi
chính ở Đông cung. Chẳng may tiên đế đi tuàn miền đông
bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững
quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm
vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc
ấy, lây đến cả thái úy Trịnh Khả và tư không Trịnh
Khắc Phục, thái hậu bắt giết cả đi để diệt hết
người nói ra. Cho nên từ đó đến giờ hạn hán sâu bệnh
liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện, đói kém
tràn lan, trăm họ cùng khốn. Diên Ninh tự biết mình không
phải là con của tiên đế, hơn nữa lòng người li tán
nên ngày mồng 3 tháng 10 năm nay đã ra lệnh cho trẫm lên
thay ngôi báu. Trẫm nhờ trời trông xuống, tổ tông phù
hộ, cùng các vương, đại thần, các quan văn võ trong ngoài
đồng lòng suy tôn, xin trẫm lên nối đại thống, hai ba
lần khuyên mời, trẫm bất đắc dĩ đã lên ngôi vào ngày
7/10 năm nay, đổi niên hiệu là Thiệu Hưng”. Những
tác giả viết bài giật gân bằng cách xuyên tạc lịch
sử chủ yếu dựa vào lời chiếu của kẻ nghịch thần
tặc tử này. Họ dựng đứng lên cuộc đấu tranh cung đình,
thủ đoạn độc ác của hoàng phi Nguyễn Thị Anh. Trong
khi lỗi của mẹ dẫn đến việc vua phế ngôi thái tử
của con xảy ra vào tháng 3/1441, trước khi sinh hoàng tử
Bang Cơ (9/5/1441), sau đó chính vua Thái Tông xuống chiếu
lập hoàng tử Bang Cơ làm thái tử từ 6/11/1441, trước
khi mất đột ngột gần 1 năm (4/8/1442). Việc thái tử Bang
Cơ lên nối ngôi do các đại thần được ủy nhiệm phụ
chính gồm ít nhất 5 người như ĐVSKTT đã dẫn (Trịnh
Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Lê Liệt, Lê Bôi). Vua Nhân Tông
cũng không ra lệnh cho Nghi Dân lên ngôi thay mà bị Nghi Dân
và một số tay chân bắc thang trèo tường thành đột nhập
vào cung giết vua. Chính những đại thần tôn lập vua Nhân
Tông lại là những người khởi binh đánh đổ Nghi Dân
lập hoàng tử Tư Thành lên ngôi. Dựa vào lời lẽ phản
nghịch “Diên Ninh tự biết mình không phải con của tiên
đế” để dựng lên bài thơ nói lái mù mờ phải chăng
người viết cũng là kẻ phản nghịch mà gieo rắc những
nội dung phản nghịch của thời trước.
Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ bị giết oan
ở cái tội danh mưu giết vua. Tội này một phần là nỗi
lo giữ ngôi từ thời Lê Thái Tổ truyền lại, còn cái
chính là vua chết trong phòng Nguyễn Thị Lộ là sự thật.
Nỗi oan này có thể thông cảm cho triều đình lúc đó vì
vua đang vào thời khỏe mạnh sáng suốt trị nước, và
cái chết của vua phải có ai đó chịu trách nhiệm. Nhưng
dù bị hàm oan nhưng Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ vẫn
được nhân dân biết, cùng đau xót thay và sự bất tử
của hai danh nhân vẫn sáng chói qua thời gian cùng non sông
đất nước.
-------------------------
Viết nhân ngày giỗ
Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ tháng 8/2012
Phạm Thuận
Thành ĐT: 0168.5300.803
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét