Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

NGHỀ MỔ RỒNG TÂM SỰ/ DUY PHI






NGHỀ
MỔ RỒNG
XUẤT XỨ

Nghề mổ rồng, bài thơ của Duy Phi, viết cuối năm ngoái, đã in trong một số tập thơ chung và riêng, in trong chùm thơ 4 bài của DP trên Văn nghệ số 43 (10/ 2012). Đó là bài thơ viết trong lúc nhàn rỗi, tự ngẫm về cái nghề phu chữ của mình, học nhiều mà ít được sử dụng. Đọc bài thơ Bệnh trung, hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác của Cao Bá Quát, lại đọc bài thơ Hầu Trời của Tản Đà, thế là có cảm hứng, hoàn thành bài thơ ngay trên máy vi tính. Nay nghe xôn xao một số báo chí phải tạm đình bản chỉ vì ế, không có người mua, một số nhà thơ mất việc. Nhớ lại ngày nào mình dời cơ quan Văn nghệ một xứ, do tự nguyện nhưng cũng lơ ngơ lắm. Bèn đọc lại thơ mình, thơ xưa, chuyện cũ.      
 


DUY PHI

NGHỀ MỔ RỒNG
 
                   Nhớ Cao Bá Quát      

Mũ lọng đời nhộn nhịp
Người người hăm hở ngược xuôi
Ngạo ca, chàng vin mây lên đỉnh
Hát cho trời ngoài trời.

Chàng tôn thờ Tiều Ẩn, Ức Trai
Một đời chỉ cúi đầu trước mai
Không học được tiên-ông phép ngủ

Chống kiếm
Bãi cát dài! Bãi cát dài!

Rút cổ khỏi gông
             - thứ không có gì đáng hợp 
Chàng đã về cùng xứ Bắc xứ Đông
Lếch thếch dạo đường, rao các ngõ:
-  Có ai mổ rồng không?

------
*  Mổ rồng: Trang Tử ghi, Chu Phanh Man học nghề mổ rồng ở nhà Chi Li Ích, ba năm thành nghề, nhưng khi về chẳng có ai thuê mổ rồng cả. Ý nói, học cái không thiết dụng.

Hai bài thơ
của tiền nhân
gợi cảm hứng:



CAO BÁ QUÁT

BỆNH TRUNG, HỮU HỮU NHÂN
CHIÊU ẨM TỊCH THƯỢNG TÁC
Trích:

Nhập thế công danh hồn trụy tắng
Truyền gia thư sử mạn đồ long
Thời nhân ngộ hứa văn chương giá
Dục bả suy nhan hoán túy dong.

Nghĩa:  

Đang ốm, có người bạn mời 
uống rượu, viết ngay trên chiếu tiệc  

Bước đường công danh không khác gì cái chõ rơi bị vỡ
Nghiệp nhà thư sử cũng tựa như nghề mổ rồng
Người đời đã lầm coi trọng mình vì văn chương 
Muốn đem vẻ mặt có chén rượu hồng hào này thay cho dung nhan suy yếu.
(Theo Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb Văn học, 1970). 



TẢN ĐÀ

HẦU TRỜI
Trích :

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thế!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.


Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

- "Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua".

Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.

Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dâ.y.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.

Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp gio.ng.
Truyền cho "văn sĩ đọc văn nghe!"
- "Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc".

Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài hơi tốt ra cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay.

- "Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển "Khối tìng" văn thuyết lý
Hai "Khối tình" con làvăn chơi
"Thần tiền", "Giấc mộng" văn tiểu thuyết
"Đài gương", "Lên sáu" văn vị đời
Quyển "Đàn bà Tàu" lối văn dịch
Đến quyển "Lên tám" nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chử biết con in ra mấy mươi?"

Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
- "Anh gánh lên đây bán chợ Trời!"

Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết".

- "Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt".

Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
- "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông".




Trời rằng: "Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc "thiên lương" của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay".
- "Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi ngày cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo".

Rằng: "Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!"
Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biê.t.
Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi.
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai.

Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới,
Trông lên chư tiên không còn ai.

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời. 





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét