THƯ CỦAÔNG NGUYỄN CHÍNH VIỄNTỪ UÔNG BÍ - QUẢNG NINH
Ý kiến chúng tôi :
Kính gửi : Ông Duy Phi
Qua sự trao đổi của ông về bài thơ Lê Thánh Tông, của Ông Vũ Anh Tuấn mà tôi thực hiện được Trannhuong.com đăng tải, ông có đưa ra một số suy nghĩ và quan điểm của ông trong việc dịch ngữ nghĩa của bài thơ, trong suy nghĩ và tâm trạng chúng tôi rất cảm kích, cho đây là những đóng góp rất quý giá để bạn đọc có thêm sự hiểu biết về bài thơ. Để rộng đường trao đổi bàn thảo hơn nữa, tôi và ông Vũ Anh Tuấn xin cung cấp tới ông một số bản dịch (thơ) mà chúng tôi có : (Riêng về câu 3 chữ “hàm” tôi đã trao đổi với ông Vũ Anh Tuấn là ông Duy Phi có nói chữ “hàm” bên trái là bộ khẩu các sách thường đọc là “ hám”, ông Tuấn có nói rằng đã dịch theo “âm” do vậy “hám” nghe phát âm nó từ tựa với “hàm” nên không có gì”phải lo” Ông ạ!)
1 – Ông Hoàng Xuân Hãn dịch :
Trăm sông chầu xuống bể ĐôngĐảo bày ngan ngát, bể lồng trời xanhChí hăng thoát muốn tuần chinhĐể giao biên trấn ban hành lệnh công.Quân hùng dàn dọc thuyền rồngKhói lang bặt dấu, Hải Đông an nhàn.Trời Nam còn mãi giang sanHãy nên xếp võ trương văn năm này.
2 – Ông Mai Hải dịch
Trăm song triều hội biển mênh môngXanh biếc trời xa biển trập trùngCó chí, xưa đành theo kẻ khácVung tay, nay tóm cả quyền chungQuân hùng tề chỉnh quanh hoàng đếKhói báo loạn ly tắt Hải ĐôngMuôn thuở trời Nam sông núi vữngChính thời văn trị dẹp binh nhung.
3 – Ông Trần Nhuận Minh dịch :
Nhận nước trăm sông, sóng cuộn đầyNúi bày cờ thế, biếc liền mâyXưa theo người khác , luôn bền chíGiờ đã tung hoành một chớp tayĐế chủ điệp trùng quân hổ mạnhHải Đông đã tắt khói lang bayTrời Nam muôn thuở non sông vữngYển vũ tu văn dựng nước này.
Xin trân trọng gửi tới ông và bạn đọc
Tác giả: Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Chính Viễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét