Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

* THƠ NGUYỄN THANH MỪNG- DUY PHI BÌNH


Thượng nguồn sông Kôn - Bình Định
                                                                              


   THƠ
   NGUYỄN THANH MỪNG  
 
   TRÊN SÔNG       

Tình cờ ghe tạt bên sông
Thương bầy cá nhỏ thở trong khoang thuyền
Tôi vui tay vét chút tiền
Chuộc bao phận bạc trả miền nước xanh

Cái niềm thú vị mỏng manh
Như đùm gốc cỗi bật thành lộc non
Đồng lương thơ phú gầy mòn
Vẫn mua được sự sống còn bình minh.

Người chài lưới, kẻ phóng sinh
Đều mong thế giới sẽ bình tâm hơn
Gửi mông lung tiếng cười giòn
Ghe trườn bến rộng xe bon đường dài…

                                        N.T.M


Lời bình của Duy Phi: 

   Bài thơ mười hai câu, đã in trên Tạp chí Thơ số 2/ 2008. Vào bài thơ là ba câu trần thuật: Thương bầy cá nhỏ thở trong khoang thuyền. Nếu thay chữ thở bằng chữ ở thì còn đâu gợi được sự thoi thóp?  Đến câu thứ tư, tác giả đã đổi thủ pháp, dùng hai ẩn dụ tạo nên một tiểu đối: Chuộc bao phận bạc trả miền nước xanh. Giống như một con chim sắp bay, ba câu trên chỉ là những lần vỗ cánh để câu thứ tư cất cánh. 
Đọc khổ thơ tiếp theo, chợt nhớ, đôi lần gặp. Ngày mai là rằm tháng Bảy (Âm lịch) thì đêm mười tư, tôi thấy trên bến sông Thương, khá đông các bà các chị đến sát mí nước nhẹ tay thả xuống những con cá chép nhỏ. Xá tội. Con người bao dung với sự sống của muôn loài. Hy vọng làm phúc được phúc.
Người thả cá chép có phần tin vào luật nhân quả, tin vào thần thánh, có sự chuẩn bị trước, có cầu khấn. Còn tác giả bài thơ Trên sông chỉ là tình cờ ghé tạt, niềm thương yêu các sinh vật đã thành tiềm thức. Như đùm gốc cỗi bật thành lộc non. Gốc cỗi là gốc cây, xưa thường gọi cây là cội là cỗi, Chim lạc bầy thương cây nhớ cội (Ca dao), Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra (Kiều). Song, cỗi còn là già cỗi. Hai chữ lộc non đối hai chữ gốc cỗi, thể hiện tính đa nghĩa, phút tâm hồn thăng hoa, hứng khởi.  
Hai câu 7 và 8, hình ảnh: Đồng lương thơ phú gầy mòn/ Vẫn mua được sự sống còn bình minh, lại có sự đối lập: sự nghèo nàn tàn tạ có định lượng và một sự sống với trời đất rộng mở, bao la tươi sáng. Không còn đơn thuần là câu chữ. Câu thơ này loé lên chiếu sáng cả bài thơ, có thể coi như một diệu cú.
Bốn câu cuối bài có vẻ lý giải: hai ngả đường, hai cách đối xử với thiên nhiên, nhưng đều chung một mục đích, nuôi sự sống. Đọc lại toàn bài, khổ thơ đầu có chữ vui, khổ thơ tiếp theo có niềm thú vị, khổ thơ cuối có tiếng cười giòn. Thơ bộc lộ tính cách. Phải chăng là một tiếng cười có phần giễu mình? Người đời thấy cảnh này cũng dễ cho là gàn, gàn nặng. Người ta chài lưới nửa đêm gà gáy mới được một mớ cá bán lấy tiền sinh sống, mình lại mua để… thả. Anh chàng làm thơ thơ thẩn, đồng lương thơ phú gầy mòn mà muốn thành đấng cứu thế!
Ngẫm lại, những lúc vào rừng, không còn một bóng chim , đến sông thấy ngư dân tung lưới mắt nhỏ để thu về những con cá bằng hạt bưởi hạt quýt, lại có chỗ nổ mìn giết cả trứng cá, mới hiểu đây là cái gàn của một thi sĩ nhân ái, minh triết.
Đọc đến câu Gửi mông lung tiếng cười giòn, chợt nhớ đến câu thơ trong bài Ngôn hoài, thời Lý: Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư - Một tiếng kêu vang lạnh cả trời. Có khác, xưa là tiếng kêu vang của một thiền sư ẩn dật, tiếng kêu ấy cô quạnh lạnh lẽo mất hút giữa hư không thăm thẳm, còn đây là tiếng cười giòn, ấm áp của một nhà thơ nhập thế, trăn trở, dám trái cả thông lệ.  
Không dám nói đến toàn bích, song bài thơ Trên sông của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng (Bình Định) đáng được ghi vào trong số những bài thơ hay dòng lục bát.


  



  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét