NHÂN KỶ NIỆM 180 NĂM 
          THÀNH LẬP TỈNH HƯNG YÊN 
THẦN ĐỒNG XƯA -
NGUYỄN TRUNG NGẠN
Nguyễn  Trung Ngạn (1289 - 1370) hiệu Giới Hiên người làng Thổ  Hoàng nay thuộc  huyện Ân Thi, Hưng Yên. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thần  đồng, có chí  lớn. Mười hai tuổi ông đỗ thái học sinh. Khoa thi Giáp  Thìn, 330 người  thi có 44 người đậu. Trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ  ghi tên những  người đỗ đầu: Mạc Đĩnh Chi - Trạng nguyên, Bùi Mộ - Bảng  nhãn, Trương  Phóng - Thám hoa và Nguyễn Trung Ngạn - Hoàng giáp. Năm hai  mươi bốn  tuổi, ông được cử làm quan gián, tức Gián nghị đại phu, chức  quan có  nhiệm vụ can gián vua. Hai mươi sáu tuổi, ông được cử đi sứ  phương Bắc.  Về những dấu mốc đó trong cuộc đời, ông có một bài thơ tự  bạch:
Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí 
 Diệu linh dĩ hữu thốn Ngưu chí 
 Niên phương thập nhị thái học sinh 
 Tài đăng thập lục sung đình thí 
 Nhị thập hựu tứ nhập gián quan 
 Nhị thập hựu lục Yên Kinh sứ.
Nghĩa:
Giới Hiên tiên sinh tài trong triều 
 Từ nhỏ có chí nuốt sao Ngưu 
 Đỗ thái học sinh mười hai tuổi 
 Vào tuổi mười sáu dự thi đình 
 Tuổi hai mươi bốn làm quan gián 
 Tuổi hai mươi sáu sứ Yên Kinh.
Tính  ông cương trực, có ý thức bảo vệ quốc thể. Lần ấy, sứ Nguyên  là Mã Hợp  Mưu sang ta. Bọn Mưu cứ nghêng ngang cưỡi ngựa đi khắp, đến bờ  ao Tây  Thấu  chỗ đã có biển báo Hạ mã hắn vẫn không chịu xuống đi bộ.  Có quan  trong triều biết tiếng Hán ra giải thích, bọn chúng không chịu,  suốt từ  giờ Thìn đến giờ Ngọ (ba, bốn giờ), khí giận đôi bên đều tăng.  Nguyễn  Trung Ngạn ra, lấy lẽ bẻ lại, bọn Hợp Mưu mới chịu. Vì trực tính,  có  một lần ông can vua không được, trái ý, ông phải đổi đi nhiều nơi:  làm  An phủ sứ (An phủ sứ: bình định cho yên dân) Thanh Hoá, An phủ sứ  Ngệ  An, Tào vận sứ (coi việc chuyên chở đường nước) Khoái Châu, Kinh  lược  sứ (trù hoạch toàn bộ việc binh việc dân) Lạng Giang…Giữa các thời  kỳ  đó, ông cũng có nhiều năm tháng ở trong triều, được phong đến Phó nội   sứ viện Nội mật, coi việc chép sử ở viện Quốc sử, lại được thăng đại   học sĩ làm ở toà Kinh duyên trụ quốc, tước Thân Quốc công. Ông đã cùng   với Trương Hán Siêu biên định tập sách Hoàng triều đại điển và bộ Hình   luật thư…
Là một nhà chính trị, ngoại giao tài năng, song tính Nguyễn Trung Ngạn thích ngâm vịnh, xướng hoạ. Ngoài những tập sách biên soạn chung, ông còn có tập thơ riêng: Giới Hiên thi tập. Đánh giá cao tập thơ này, nhà bác học Lê Quý Đôn đã chép 81 bài thơ của ông vào trong tuyển thơ lớn của mình: Toàn Việt thi lục. Trong khi nhiều tác giả khác, nếu được tuyển vào đó dăm ba bài cũng đã là vinh hạnh lắm. Một học giả khác có nhận xét về thơ Giới Hiên: “Lời thơ hào mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách thơ Đỗ Phủ”. Thơ Nguyễn Trung Ngạn chủ yếu là ca ngợi giang sơn cẩm tú, thiên về hoài niệm. Làm quan trải năm triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông), qua lại, ở Thăng Long đến mấy chục năm, ông có bài Nhớ thành Tràng An xưa (Tràng An thành hoài cổ), có phần xa xót trước cảnh dâu bể:
Là một nhà chính trị, ngoại giao tài năng, song tính Nguyễn Trung Ngạn thích ngâm vịnh, xướng hoạ. Ngoài những tập sách biên soạn chung, ông còn có tập thơ riêng: Giới Hiên thi tập. Đánh giá cao tập thơ này, nhà bác học Lê Quý Đôn đã chép 81 bài thơ của ông vào trong tuyển thơ lớn của mình: Toàn Việt thi lục. Trong khi nhiều tác giả khác, nếu được tuyển vào đó dăm ba bài cũng đã là vinh hạnh lắm. Một học giả khác có nhận xét về thơ Giới Hiên: “Lời thơ hào mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách thơ Đỗ Phủ”. Thơ Nguyễn Trung Ngạn chủ yếu là ca ngợi giang sơn cẩm tú, thiên về hoài niệm. Làm quan trải năm triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông), qua lại, ở Thăng Long đến mấy chục năm, ông có bài Nhớ thành Tràng An xưa (Tràng An thành hoài cổ), có phần xa xót trước cảnh dâu bể:
CHÙA CHUÔNG Ở PHỐ HIẾN - HƯNG YÊN
Mộc lạc hoà điêu đế nghiệp dư 
 Lý gia thu đặc bản đồ quy 
 Sơn vi cố quốc quy mô tiểu 
 Trúc ám hoang thành thảo mộc phi 
 Cổ tự tăng chung xao lạc nhật 
 Đoạn khê ngưu địch lộng tà huy 
 Anh hùng cựu sự vô tầm xứ 
 Độc ỷ giang đình khán thuý vi
Dịch thơ:
Xơ xác hoa cây nghiệp đổi thay 
 Bản đồ nhà Lý nắm trong tay 
 Nước xưa núi bọc quy mô nhỏ 
 Trúc rợp thành hoang, củi cỏ đầy 
 Chùa cũ chuông sư, vầng nhật rụng 
 Suối ngang sáo mục, ánh chiều lay 
 Anh hùng việc cũ tìm đâu thấy 
 Ngắm núi bên sông, tựa quán này 
 Ngô Văn Phú dịch
Thời  làm An phủ sứ vùng đất Thanh Nghệ, ông đã nhiều lần qua cửa  biển Thần  Phù (Thần Đầu). Đó là một miền sóng gió nguy hiểm Lênh đênh  qua cửa  Thần Phù/ Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm - Ca dao, nhưng cũng  là nơi  phong cảnh rất tuyệt đẹp. Trong bài thơ Cửa biển Thần Phù chiều  đậu  thuyền (Thần Đầu cảng khẩu vãn bạc) của ông có đoạn:
Rồng về cửa động sương gieo 
 Kình phun gió nổi bóng chiều ngút trông 
 Thuyền một lá, cảnh mênh mông 
 Ngỡ mình đã tới tiên cung ánh ngời
(Long  quy động khẩu tình sinh vụ/ Kình phún triều đầu mộ khởi  phong/ Độc  phiếm lan chu quan hạo đãng/ Hốt nghi thân tại lạn ngân  cung).
Bình về thơ trong Giới Hiên thi tập, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã ca ngợi: “Nhiều câu thơ hay, thơ tứ tuyệt càng hay, không kém gì thơ Thịnh Đường”. Một trong số các bài tứ tuyệt mà nhiều sách đã chọn dịch là Cảm hứng trên đường về (Quy hứng):
Bình về thơ trong Giới Hiên thi tập, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã ca ngợi: “Nhiều câu thơ hay, thơ tứ tuyệt càng hay, không kém gì thơ Thịnh Đường”. Một trong số các bài tứ tuyệt mà nhiều sách đã chọn dịch là Cảm hứng trên đường về (Quy hứng):
Lão tang diệp lạc tàm phương tận
 Tảo đạo hoa hương giải chính phì 
 Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo
 Nam Giang tuy lạc bất như quy.
Nghĩa:  Dâu già lá rụng tằm vừa chín/ Lúa sớm bông thơm cua đang  lúc béo/ Nghe  nói ở nhà nghèo nhưng vẫn tốt hơn/ Nam Giang tuy vui nhưng  đâu bằng về  với quê nhà.
Nam Giang tức đất Giang Nam, một tỉnh lớn của Trung Quốc, trên đường ông về qua. Thời Nguyễn Trung Ngạn đi sứ, hai nước hữu hảo, việc đón tiếp nồng hậu, hẳn là những bữa tiệc: Nào gân hươu vây cá/ Thịt lợn dê đầy bàn (Lộc cân tạp ngư xí/ Mãn trác trần trư dương…). Song, dù vui nơi đất khách, tác giả vẫn vẫn luôn nhớ về những hương vị quê nhà: cuộc sống dung dị, tình làng nghĩa xóm, trong lành yên ả. Tất nhiên, việc đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn ngày xưa với kiều bào ta ở nước ngoài ngày nay khác nhau lắm lắm.
Bài thơ trên đây, có một bản dịch rất đạt của cụ Bùi Huy Bích, in trong Hoàng Việt thi văn tuyển:
Nam Giang tức đất Giang Nam, một tỉnh lớn của Trung Quốc, trên đường ông về qua. Thời Nguyễn Trung Ngạn đi sứ, hai nước hữu hảo, việc đón tiếp nồng hậu, hẳn là những bữa tiệc: Nào gân hươu vây cá/ Thịt lợn dê đầy bàn (Lộc cân tạp ngư xí/ Mãn trác trần trư dương…). Song, dù vui nơi đất khách, tác giả vẫn vẫn luôn nhớ về những hương vị quê nhà: cuộc sống dung dị, tình làng nghĩa xóm, trong lành yên ả. Tất nhiên, việc đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn ngày xưa với kiều bào ta ở nước ngoài ngày nay khác nhau lắm lắm.
Bài thơ trên đây, có một bản dịch rất đạt của cụ Bùi Huy Bích, in trong Hoàng Việt thi văn tuyển:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
 Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
 Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
 Dẫu vui đất khách chẳng bằng về.
DP


 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét