Đặng Tiến Huy
ĐÔI GUỐC GỘC TRE
Truyện ngắn
Nhà ông bà nội tôi ở quê
rộng rãi và thoáng mát. Phong cảnh làng quê êm đềm có lũy tre làng bao quanh
xanh mát quanh năm, tiếp đến là những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Bốn mùa,
cánh đồng như không nghỉ, khi thì trập trùng lúa xanh mơn mởn, tiếp đó là màu
vàng lúa chín tơ tằm, ấm no chạy tít chân trời.
Chúng tôi rất thích về quê thăm ông bà nội, các bác cô dì,
anh em họ hàng, thăm làng, bà con chòm xóm vui vẻ, chan hòa rất quý mến khách.
Ông bà tôi còn giữ được ngôi nhà cổ năm gian, trải qua năm
sáu đời các cụ tổ để lại còn nguyên vẹn. Cột kèo, dui mè, cánh cửa đều bằng gỗ
lim đen bóng soi gương được. Mùa hè rải chiếu nằm trong nhà rất mát, không cần
phải quạt điện. Mùa đông lại vô cùng ấm áp. Ông tôi kể. Ngôi nhà đã qua sáu
đời, đời ông là thứ bảy, nếu tính bố mẹ và các cháu nữa là thứ tám, thứ chín.
Mà nào có yên bình. Giặc dã liên miên. Giặc đến thì dỡ nhà ngâm dấu dưới ao.
Giặc lui, lại mò lên dựng lại trên nền cũ. Cả làng ta nhà nào cũng thế. Nhiều
ngôi nhà đẹp, lâu đời quý hơn nhà ta ấy chứ. Khi nào có dịp ông sẽ đưa các cháu
đến thăm. Ngay như thời ông và bố mẹ các cháu gần đây thôi, chống Pháp 9 năm
thắng lợi, tiếp đến giặc Mỹ lại bắn phá rốc két - thả bom phá hoại mà chúng rêu
rao "đưa ta về thời đồ đá", có làm nổi đâu. Nhà của ông con mình vẫn
đây. Làng xóm ta vẫn trù phú tươi đẹp, ngày một đổi thay. Chúng tôi rất mê khu
vườn rộng rãi, nhiều cây ăn quả, có những cây mấy trăm năm, được ông bà tôi
chăm bón tốt nên vẫn ra hoa kết trái rất sai, hương vị thơm ngon đậm đà. Quanh
nhà là lũy tre ken dày, quanh lũy tre là hào rộng, nước đầy thông đến ao nhà,
thả cá. Trên mặt nước thả đủ thứ: rau muống bè, rau rút, bèo tây, bèo tấm, cây
hoa sen, hoa súng cũng mọc xen vào vừa là nguồn thức ăn cho lợn, vừa rau ăn của
gia đình... Ông tôi nuôi thả nhiều loại cá, chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh.
Khi cho ăn đàn đàn quây đến quẩn quanh, quẫy đạp tranh mồi trông thật thích
mắt. Tha hồ mà ngồi câu dưới bóng mát cây vườn, cả buổi không chán.
Thích nhất là mắc võng dưới gốc những cây cổ thụ, ngọn cây
cao, tán lá xòe rộng, trong tán lá xanh mát ẩn hiện những chùm hoa trắng muốt
hoặc tím biếc, phảng phất hương thơm dịu ngọt, hòa cùng tiếng chim hót lảnh lót
, ru ta vào giấc ngủ say tự lúc nào. Ông tôi thường mắc võng cạnh võng chúng
tôi thủ thỉ kể cho chúng tôi nghe về sự tích những truyền thống của làng. Những
chiều đẹp trời, ông dẫn chúng tôi ra thăm ao làng rộng lớn, là nơi tích nước
cho cả làng cùng sinh hoạt như tắm, giặt, làm nước tưới tiêu cho những cánh
đồng làng. Trong chiến tranh làm phòng tuyến ngăn chặn giặc. Ao thông với hào
bao quanh làng tạo thành chiến tuyến liên hoàn rất thuận lợi cho du kích đánh
giặc giữ làng. Không biết từ bao giờ ao có tên là Ao Rồng. Ông bảo, nếu trèo
lên đỉnh cây đa cổng làng nhìn bao quát ao hiện lên như một con rồng khổng lồ.
Chiếc gò đầu làng là đầu rồng, hai giếng nước làng trên gò quanh năm không cạn,
nước vừa trong vừa ngọt, cung cấp nước ăn cho cả làng như đôi mắt rồng, được
gọi là giếng ngọc. Đã bao đời nay, Ao Rồng là nơi cho dân làng tắm giặt, là bể
bơi cho bao lớp trẻ vùng vẫy lớn lên, kể cả đời ông bà, bố mẹ chúng tôi. Ao
Rồng còn là nguồn nước tưới tiêu cho những cánh đồng làng làm ra gié lúa củ
khoai; đồng hành cùng dân làng đánh giặc giữ làng qua bao thời giặc dã xâm
lăng. Đôi giếng Ngọc là nguồn nước nuôi sống cả làng từ đời xưa cho đến ngày
nay, có thể còn mãi mãi những đời sau nữa.
Đẹp nhất là khi hoàng hôn buông xuống, cả làng chìm trong
những làn khói mảnh bay lên từ bếp lửa mọi nhà chuẩn bị cho bữa cơm chiều họp
mặt đông vui sau một ngày làm việc vất vả; cũng là lúc lớp lớp những đàn cò
trắng đi kiếm ăn xa bay bề tổ trên lũy tre làng cất lên những tiếng kêu rộn rã
như chào tạm biệt nhau, cả như tiếng cò con gọi bố mẹ mừng vui ríu rít, tưởng tượng
như bức tranh quê lung linh chớp sáng trong bản nhạc đồng quê êm đềm. Lũy tre
nhà nào cũng trắng xóa cánh cò, cả làng là một rừng cò, rừng âm thanh náo nhiệt
trong hoàng hôn thanh bình.
Có lần dẫn chúng tôi đi vòng quanh làng, từ miền đất cổ tích
này, vừa đi ông tôi vừa kể rất say sưa, tự hào. Làng ta là một pháo đài bất khả
xâm phạm từ thời cụ kỵ ông bà. Mọi kẻ thù xâm lược không đánh chiếm được làng.
Lũy tre làng kia là lũy thép. Những ao làng nhà nhà thông với nhau bằng những
đường hào kia là phòng tuyến tiến thoái lưỡng nan rất lợi hại khiến quân thù
bao phen khiếp sợ.
Ao Rồng liên thông với ao mọi nhà chạy quanh làng núp dưới
lũy tre ken dày như bức tường thành. Dưới đáy hào cắm chông tre chông sắt dày
đặc. Quanh lũy tre đắp những ụ súng chiến đấu kiên cố, nối với nhau bằng giao
thông hòa, hầm nghỉ ngơi tránh bom đạn và nối với hầm chỉ huy vừa kiên cố vừa
bí mật như trận đồ bát quái, tiến lui, hỗ trợ, yểm hộ nhau liên hoàn nhanh
chóng, thuận lợi. Có những đường giao thông hào thoát hiểm rất bí mật tỏa ra
những cánh đồng làng. Phòng khi hỏa lực chúng quá mạnh, chiếm được làng, ta đã
sẵn vườn không nhà trống, bà con thoát ra tản cư trước, lực lượng chiến đấu cầm
cự bảo vệ dân làng rút an toàn mới rút sau, bảo toàn lực lượng ra trận địa đã
chuẩn bị sẵn ở đồng làng bao vây lại chúng, chờ thời cơ tổng công kích tiêu
diệt giặc giải phóng làng. Đấy là kế hoạch phòng thủ chứ tuyệt nhiên không bao
giờ để chúng chiếm được làng.
Trong 9 năm kháng chiến
đánh giặc Pháp, ông tham gia đội du kích, được dự gần 300 trận càn quét của
địch, chúng đều thua đội du kích làng ta. Làng ta thành làng chiến đấu kiểu
mẫu. Được Cụ Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngợi khen trong Đại hội Thi đua Anh
hùng chiến sĩ Toàn quốc ở chiến khu. Sau này được Nhà nước tuyên dương danh
hiệu cao quý - Làng xã Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bây giờ các cháu thấy đấy, dấu tích lũy tre, hầm hào phòng
tuyến thép của làng kiểu mẫu chống giặc vẫn còn đây.
Ông tôi vắt hai tay ra sau lưng, đi chậm rãi trầm ngâm như
thể đang nhớ lại những kỷ niệm thiêng liêng của một thời trai trẻ "gian
lao mà anh dũng" hăng hái tham gia chiến đấu chống càn giữ làng. Biết kể
lại với các cháu sao đây cho các cháu hiểu để mà tự hào, noi theo?
Bỗng ông tôi dừng lại bên lũy tre, những cây to cây nhỏ ken
dày, những cành những gai đan xen bện xoắn chặt vào nhau, có những thân cây
bánh tẻ cuốn níu lấy nhau giống như những cánh tay đồng đội bám chặt lấy nhau
quanh những ụ súng xưa, tiếp đến là những gốc tre già tạo thành tầng tầng lớp
lớp những gốc tre đủ mọi hình thù kì dị như những con giống ngộ nghĩnh đẹp mắt,
thân quen. Chỉ tay vào đó, ông tôi nhỏ nhẹ như giải thích. Các cháu thấy không?
Tre sống chung thủy với người. Có nhiều tiện ích giúp người từ khi lọt lòng đến
già rồi chết... Sống chết chở che người. Từ đời này đến đời kia "tre già
măng mọc" thành "lũy tre" ngăn bão tố phong ba, giặc dã cho làng
ta trường tồn. Những gộc tre già này tưởng chừng như vô dụng, nhưng không, nhờ
có nó lũy tre mới vững. Đôi khi cũng phải đánh tỉa bớt đi cho măng mọc sinh sôi
nẩy nở. Gộc tre được phơi khô thành củi đun. Tết đến, nhà nào cũng đem luộc
bánh chưng. Gộc tre luộc bánh chưng rền ngon tha hồ để lâu không lại gạo.
Ông cháu tôi đi dạo quanh làng, gặp ai họ cũng chào hỏi thân
mật, kính trọng: Bẩm, Chào cụ Phó, dắt các cháu đi chơi thăm làng ạ! Ông tôi
đều cung kính đáp lại: Dạ, không dám ạ... Các ông bà, hoặc các bác... đi làm
về!.
Có lần, tôi hỏi - Ông ơi, ngày xưa ông làm gì ở làng mà ai
cũng chào là Cụ Phó thế? Ông tôi cười khà khà vui vẻ, ông chỉ làm ruộng, làm
anh tá điền với con trâu đi trước cái cày theo sau, chân lấm tay bùn, bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, chứ có được làm vương tướng gì đâu. Chả là, những
lúc nông nhàn ông học mót được cái nghề đóng cối xay lúa, được bà con quý trọng
gọi là phó cối. Cũng là một chức vị được dân tôn trọng phong cho. Ối nghề cũng
được dân phong như thế, phó mộc (làm nghề thợ mộc), phó ngõa (làm nghề thợ
xây)...
Tôi lại buộc miệng hỏi ông: Sao không phong cho làm trưởng
cối, trưởng mộc, trưởng ngõa... mà chỉ rặt là phó thôi ông? À, mình là dân lao
động thấp cổ bé họng học hành dốt nát được thế là phúc đức lắm đấy các cháu ạ.
Sao dám vượt mặt các quan chức sắc làng xã được. Dân mình là có ý sâu sa lắm
đấy chẳng vừa đâu...
Sau này điện kéo về đến xã, đếnn làng, những trạm xay xát
thóc gạo mọc lên khắp nơi, vừa tiện lợi nhanh chóng, hạt gạo trắng ngon ít tấm
đỡ cho công việc xay giã vất vả. Không ai bảo ai, mọi nhà bó xó cối xay cối
giã. Ông tôi không còn đường hành nghề
nữa. Những chức vị phó cối, gọi tắt là cụ Phó gắn với ông tôi suốt đời.
Mỗi khi nhớ nghề, ông tôi lại ra rạng tre ngắm nghía, đầu óc vẽ vời đẩu đâu.
Nhất là khi nhìn vào những gốc tre già chen chúc nhau tầng tầng lớp lớp, nhiều
hình thù kỳ dị, lạ mắt, thế là trong đầu nẩy nở nhứng ý tứ táo bạo. Và ông say
sưa ngắm tìm những gộc tre ưng ý tỉa, đánh về mê mải đẽo đẽo gọt gọt, với bàn
tay khéo léo, đầu óc tưởng tượng phong phú tạo ra những con giống rất đẹp. Bạn
bè đến chơi ai cũng khâm phục, khen ngợi ông tôi khéo tay hay mắt như một nghệ
nhân giỏi. sáng tạo ra trò chơi dân gian mới, từ vật liệu sẵn có lại gắn mật
thiết với dân quê. Khách ra về thích con nào ông biếu tặng con ấy. Nhiều ông
bạn hãnh diện, trân trọng để vào tủ bày cho đẹp.
Ông tôi còn mày mò, chọn lựa, đẽo gọt thành những đôi guốc
gộc tre trông thật ngộ nghĩnh, tiện lợi, bền chắc, đi lại vững vàng nơi đường
trơn lầy lội, không sợ ngã. Nhất là đi vào rửa chuồng lợn, chuồng trâu, không
giầy dép nào sánh kịp. Gộc tre nào xung quanh cũng tua tủa những rễ tre. Ông
tạo dáng gộc tre làm thân guốc, cắt tỉa rễ tre theo thân guốc. Đôi thì trông
như đôi nhím, đôi thì như đôi chuột, đôi công, đôi thỏ.... Trên đầu guốc đục
một lỗ nhỏ, dưới gần gót guốc đục hai lỗ hai bên sườn để sỏ quai guốc như quai
dép lê Thái Lan. Quai ông đan bằng những sợi cật tre bánh tẻ được luộc hấp cho
thật dẻo, xỏ chân vào vừa êm vừa bền. Nhiều người trong xã ngoài làng đến hỏi
mua. Ông tôi đều lắc đầu cười, biếu tặng làm quà kỷ niệm thôi. Có những dân
buôn tìm đến, khen ông tôi là nghệ nhân kỳ tài có bàn tay vàng. Rồi mon men đặt
hàng theo mẫu để xuất khẩu, ông tôi không nhận lời.
Sau khi khách ra về, ông dịu dàng nói với chúng tôi. Các cháu
ạ, làm người tử tế phải biết sống có trước có sau, đã bao đời lũy tre làng đã
cưu mang, che chở ta hết đận tao loạn này đến đận giặc dã khác để được còn
làng, còn chúng ta sống đến hôm nay. Không lẽ vì cái lợi trước mắt mà phá phách
tanh bành ra hết. Phải biết giữ gìn những báu vật, ân nhân của mình, phòng
khi...
Nói đến đây, ông tôi dừng lại bỏ lửng như một câu đố giành
cho chúng tôi sau này lớn lên tìm ra lời giải mà điền vào. Ông tôi ngước mắt
nhìn xa xăm bao quát quanh lũy tre làng, vừa lúc ấy đàn có lớn đi kiếm ăn từ
khắp nơi bay về đậu trắng xóa đỉnh ngọn tre, những đôi cánh cò chớp sáng làm
bừng lên ánh chiều tà ấm áp, rộn rã một vùng quê, tiếng cò con gọi bố mẹ hay
tiếng chào nhau của bố mẹ nhà cò trước lúc về tổ.
Mãi sau này, khi lớn lên, được ăn học, chúng tôi mới tìm ra
được ẩn số, mới hiểu được lời ông tôi ở chỗ dừng "... phòng khi ..."
mà sâu sắc làm sao...
Nhiều người trong làng, trong họ mạc đến xin được học nghề,
ông tôi không nhận lời truyền nghề cho ai, kể cả con cháu trong nhà.
Cả đời ông tôi mới tạo ra được một đôi guốc gộc tre ưng ý nhất.
Ông đặt trang trọng ở ngăn tủ giữa trên tấm lụa điều. Khách vào chơi ai cũng
ngạc nhiên thấy ông có một đôi guốc lạ, độc nhất vô nhị. Nhiều người ở xa nghe
tin đồn cũng tìm đến xin được ông cho xem bằng được. Có người giàu, quan chức
tỉnh về xin mua trả giá rất hời có thể mua được mấy tạ gạo, ông tôi đều lắc
đầu.
Làm ra được đôi guốc này, ông tôi phải mất nhiều năm tìm
kiếm, ngắm nghía, lựa chọn nhiều bụi tre lớn, lâu đời mới ưng ý đôi gộc tre ấy.
Thế rồi hì hục đánh về, phơi khô thêm, tiếp tục ngắm nghía, hết ngày qua đêm
tưởng tượng tìm thế tạo dáng cho đôi guốc vừa giữ được dáng vẻ tự nhiên sinh ra
của gốc tre, vừa phải thể hiện có bàn tay, khối óc của con người ẩn chứa nét
tài hoa, cái đẹp, cái lạ, ai trông thấy cũng phải thích. Khó nhất là tạo đầu
đôi guốc như hai đầu rồng, một trống một mái. Thân guốc như đôi thuyền rồng
thong dong... Quai quốc như những vẩy rồng, xỏ chân vào ôm lấy nhẹ nhàng êm ái,
đi lâu không bị phồng, xước bàn chân có độ đàn hồi vừa phải, dẻo dai, bền chắc,
giúp cho dáng đi vững vàng duyên dáng. Quai guốc ông tôi phải chọn lựa cật tre
bánh tẻ kỹ lưỡng lắm, chế tác làm sao cho cật tre dẻo, bền lâu dễ đan bện cũng
phải công phu lắm. Bên quai guốc cũng phải nghĩ ra nhiều mẫu mã để lựa chọn ra
một mẫu phù hợp với cách tạo dáng của đôi guốc, mang vẻ đẹp hoàn hảo nhất.
Làm xong đôi guốc, ông tôi mãn nguyện lắm, vui lắm và cũng là
lúc tuyên bố "gác kiếm", lực bất tòng tâm rồi. "Hưu" thôi.
Vào cuối xuân, đầu hè, năm sáu mốt, Bác Hồ về thăm tỉnh tôi.
Quê tôi có truyền thống đánh giặc giữ làng giỏi, sản xuất xây dựng quê hương
mới trong hòa bình cũng rất tài. Từ Hợp tác xã bậc thấp tiến lên Hợp tác xã bậc
cao tiên tiến lá cờ đầu của tỉnh. Nhân dịp này được đón Bác về thăm. Một vinh
dự lớn. Cả làng xã và các xã lân cận rộn rập chờ đón Bác từ chiều hôm trước. Ba
giờ đêm mọi người đã kéo đến chật ních sân trụ sở Hợp tác xã. Hôm ấy trời lại
mưa rất to như trút nước suốt đêm đến tận bảy, tám giờ sáng chưa tạnh. Nhưng
không cản được bà con khắp nơi nô nức kéo về. Đến hơn chín giờ, trời bỗng tạnh
ráo, hửng nắng, vừa đúng lúc Bác về đến nơi. Theo tác phong sâu sát, Bác đề
nghị lãnh đạo địa phương đưa Bác đi thăm khắp lượt làng xóm, trước khi đến gặp
gỡ nới chuyện với toàn dân. Mọi người đều phân vân lo ngại vì đường làng ngõ
xóm chưa tốt, lại bị trận mưa đêm qua không tránh khỏi lầy lội, trơn không bảo
vệ được an toàn cho Bác. Ông tôi xuất hiện đúng lúc, nhắn gọi ông Chủ tịch xã
ra cổng nhờ biếu Bác đôi guốc gộc tre để Bác đi không sợ đường trơn, lầy thụt.
Bác đến từng gia đình có công với nước, ân cần thăm hỏi các
cụ già làng, lão thành cách mạng, các gia đình neo đơn. Bác rất chú ý, nhắc nhở
việc đào giếng nước ăn, xây dựng các công trình vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi
cho khoa học, hợp vệ sinh gia đình và công cộng, đảm bảo sức khỏe chung trong
cộng đồng. Sức khỏe là vốn quí, có sức khỏe mới lao động, học tập và làm các
việc khác tốt được.
Sau đó, Bác về gặp gỡ nói chuyện gần một tiếng đồng hồ với
toàn dân. Bốn năm ngàn trái tim xúc động, im lặng hướng về Người; như nuốt lấy
từng lời dạy bảo ân cần của Người.
Ông tôi đứng lẫn trong biển người hồi hộp lắng nghe, khắc ghi
từng lời của Bác, và vô cùng sung sướng được Bác đi đôi guốc gộc tre làng mà
ông mất bao thời gian, công sức làm ra mới có dịp phục vụ Bác đi thăm làng được
an toàn. Ông tôi ước ao, nếu được gặp cụ, ông sẽ nói với cụ rằng: "Thưa
Bác, đôi guốc gộc tre này được lựa chọn từ những bụi tre đã kiên cường làm lũy
thép bất khả xâm phạm của bao thời, bao đời kiên cường đánh giặc giữ làng mà cụ
đã bạn tặng phong cho làng xã đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang đó ạ".
Buổi chiều ông tôi ngồi uống nước chè một mình vẫn còn xao
xuyến bâng khuâng buổi sáng đón Bác, nghe Bác nói chuyện và lúc tiễn Bác ra về.
Ông nghĩ tới đôi guốc gộc tre đã được phục vụ Bác, lại được theo Bác, sớm khuya
bên Bác, hẳn Bác sẽ nhớ đến người tạo ra nó, nhớ đến lũy tre làng.... Ôi sao mà
hãnh diện, tự hào, mà... Thình lình anh Chủ tịch xã đến chơi: Thưa ông, Bác Hồ
gửi trả lại ông đôi guốc quí ạ. Bác gửi lời cám ơn ông và chúc ông sức khỏe.
Bác khen đôi guốc rất đẹp, phải khéo tay, có khiếu thẩm mĩ mới sáng tạo được.
Lại rất tiện dụng, nhờ vậy mà Bác đi cả buổi đường làng ngõ xóm có trơn, lầy
lội một số chỗ vẫn an toàn. Bác biết ông mất nhiều công sức và tài năng mới tạo
ra được đội guốc này. Bác gửi lại ông để ông giữ làm kỷ niệm.
Ông tôi ớ người ra... vui vẻ nhận lại đôi guốc. Đôi guốc đã
được rửa sạch bùn đất. Cầm đôi guốc trên tay mà lòng cứ bồi hồi làm sao, ấp đôi
guốc vào ngực, trái tim bỗng đập rộn lên xao xuyến lạ lùng, trong lòng ông tôi
như thầm reo lên: - Ôi! Đôi guốc như vẫn còn lưu giữ hơi ấm của Người.
Ông tôi trân trọng đặt đôi guốc về chỗ cũ. Ô giữa tủ, trên
tấm lụa điều.
Từ ấy, nhà ông tôi luôn
luôn có khách đến chơi. Khách thân quen làng xóm, cả những khách lạ thập phương
tò mò muốn được chiêm ngưỡng đôi guốc phục vụ Bác Hồ. Ông tôi vui vẻ đón tiếp
mọi người. Rồi mỗi người lại râm ran kể lại những kỷ niệm của riêng mình hôm
được đón Bác. Nhắc lại thuộc lòng những lời Bác nói: "... Từ tổ đổi công lên hợp tác xã bậc thấp, rồi tiến lên hợp tác
xã bậc cao, như thế là tốt... Hợp tác xã tiến lên bậc cao thì người càng đông,
sức càng mạnh, sản xuất càng được nhiều hơn, tốt hơn. Hợp tác xã đông người,
tinh thần lại nhất trí, xã viên và cán bộ đoàn kết chặt chẽ thì khó khăn nào
cũng vượt qua... Đảng viên và đoàn viên phải gương mẫu làm đầu tàu trong lao
động sản xuất và học tập... Bác chúc bà con xã viên và đồng bào cố gắng nhiều,
tiến bộ nhiều, sản xuất nhiều, thu hoạch nhiều...".
Ngày mồng 2 tháng 9 năm
1969, Bác Hồ mất, cùng với nỗi đau và niềm thương nhớ của toàn Đảng, toàn dân,
ông tôi cũng rất đau buồn thương nhớ Bác. Ông để đôi guốc trang trọng trên bàn
thờ, ngày rằm mồng một hàng tháng đều sắp đĩa trái cây, bình hoa, thành kính
thắp nhang tưởng nhớ đến các cụ tổ và Bác Hồ...
Mấy năm sau, ông tôi tuổi cao lực kiệt, chỉ qua mấy ngày kém
ăn, mất ngủ là thanh thản ông đi. Trước đấy một hôm, ông nói với Bác cả tôi:
"Đôi guốc là tâm huyết cả đời của bố, là kỷ vật thiêng liêng bất li thân
của bố, diễm phúc lắm nhà ta mới được lộc Bác Hồ đi đôi guốc ấy ngày Bác về
thăm làng. Bố mất đi, con phải hóa theo bố. Lên trên ấy, may được gặp lại Bác,
bố kính biếu lại Bác."
Đôi guốc gộc tre cùng vàng
mã được hóa trên mộ ông tôi. Tôi được chứng kiến từ lúc ngọn lửa bén cháy, rồi
bốc lên ngùn ngụt, đến khi đôi guốc cháy thành than cùng với tro vàng mã, bỗng
một luồng gió thổi đến xoay tròn làm rực lên ngọn lửa xanh lét, xoay tròn như
vòi rồng hút tro than và khói hương lên trời cao.
Bầu trời trong xanh thăm thẳm.
Thánh Thiên, 19 - 8 - 2012
Đ.T.H
RẤT VUI ĐƯỢC LÀM QUEN VÀ ĐỌC VĂN CHƯƠNG CỦA ANH!
Trả lờiXóa