Đặng Tiến Huy
ĐÔI GUỐC GỘC TRE
Truyện ngắn
Nhà ông bà nội tôi ở quê
rộng rãi và thoáng mát. Phong cảnh làng quê êm đềm có lũy tre làng bao quanh
xanh mát quanh năm, tiếp đến là những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Bốn mùa,
cánh đồng như không nghỉ, khi thì trập trùng lúa xanh mơn mởn, tiếp đó là màu
vàng lúa chín tơ tằm, ấm no chạy tít chân trời.
Chúng tôi rất thích về quê thăm ông bà nội, các bác cô dì,
anh em họ hàng, thăm làng, bà con chòm xóm vui vẻ, chan hòa rất quý mến khách.
Ông bà tôi còn giữ được ngôi nhà cổ năm gian, trải qua năm
sáu đời các cụ tổ để lại còn nguyên vẹn. Cột kèo, dui mè, cánh cửa đều bằng gỗ
lim đen bóng soi gương được. Mùa hè rải chiếu nằm trong nhà rất mát, không cần
phải quạt điện. Mùa đông lại vô cùng ấm áp. Ông tôi kể. Ngôi nhà đã qua sáu
đời, đời ông là thứ bảy, nếu tính bố mẹ và các cháu nữa là thứ tám, thứ chín.
Mà nào có yên bình. Giặc dã liên miên. Giặc đến thì dỡ nhà ngâm dấu dưới ao.
Giặc lui, lại mò lên dựng lại trên nền cũ. Cả làng ta nhà nào cũng thế. Nhiều
ngôi nhà đẹp, lâu đời quý hơn nhà ta ấy chứ. Khi nào có dịp ông sẽ đưa các cháu
đến thăm. Ngay như thời ông và bố mẹ các cháu gần đây thôi, chống Pháp 9 năm
thắng lợi, tiếp đến giặc Mỹ lại bắn phá rốc két - thả bom phá hoại mà chúng rêu
rao "đưa ta về thời đồ đá", có làm nổi đâu. Nhà của ông con mình vẫn
đây. Làng xóm ta vẫn trù phú tươi đẹp, ngày một đổi thay. Chúng tôi rất mê khu
vườn rộng rãi, nhiều cây ăn quả, có những cây mấy trăm năm, được ông bà tôi
chăm bón tốt nên vẫn ra hoa kết trái rất sai, hương vị thơm ngon đậm đà. Quanh
nhà là lũy tre ken dày, quanh lũy tre là hào rộng, nước đầy thông đến ao nhà,
thả cá. Trên mặt nước thả đủ thứ: rau muống bè, rau rút, bèo tây, bèo tấm, cây
hoa sen, hoa súng cũng mọc xen vào vừa là nguồn thức ăn cho lợn, vừa rau ăn của
gia đình... Ông tôi nuôi thả nhiều loại cá, chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh.
Khi cho ăn đàn đàn quây đến quẩn quanh, quẫy đạp tranh mồi trông thật thích
mắt. Tha hồ mà ngồi câu dưới bóng mát cây vườn, cả buổi không chán.
Thích nhất là mắc võng dưới gốc những cây cổ thụ, ngọn cây
cao, tán lá xòe rộng, trong tán lá xanh mát ẩn hiện những chùm hoa trắng muốt
hoặc tím biếc, phảng phất hương thơm dịu ngọt, hòa cùng tiếng chim hót lảnh lót
, ru ta vào giấc ngủ say tự lúc nào. Ông tôi thường mắc võng cạnh võng chúng
tôi thủ thỉ kể cho chúng tôi nghe về sự tích những truyền thống của làng. Những
chiều đẹp trời, ông dẫn chúng tôi ra thăm ao làng rộng lớn, là nơi tích nước
cho cả làng cùng sinh hoạt như tắm, giặt, làm nước tưới tiêu cho những cánh
đồng làng. Trong chiến tranh làm phòng tuyến ngăn chặn giặc. Ao thông với hào
bao quanh làng tạo thành chiến tuyến liên hoàn rất thuận lợi cho du kích đánh
giặc giữ làng. Không biết từ bao giờ ao có tên là Ao Rồng. Ông bảo, nếu trèo
lên đỉnh cây đa cổng làng nhìn bao quát ao hiện lên như một con rồng khổng lồ.
Chiếc gò đầu làng là đầu rồng, hai giếng nước làng trên gò quanh năm không cạn,
nước vừa trong vừa ngọt, cung cấp nước ăn cho cả làng như đôi mắt rồng, được
gọi là giếng ngọc. Đã bao đời nay, Ao Rồng là nơi cho dân làng tắm giặt, là bể
bơi cho bao lớp trẻ vùng vẫy lớn lên, kể cả đời ông bà, bố mẹ chúng tôi. Ao
Rồng còn là nguồn nước tưới tiêu cho những cánh đồng làng làm ra gié lúa củ
khoai; đồng hành cùng dân làng đánh giặc giữ làng qua bao thời giặc dã xâm
lăng. Đôi giếng Ngọc là nguồn nước nuôi sống cả làng từ đời xưa cho đến ngày
nay, có thể còn mãi mãi những đời sau nữa.
Đẹp nhất là khi hoàng hôn buông xuống, cả làng chìm trong
những làn khói mảnh bay lên từ bếp lửa mọi nhà chuẩn bị cho bữa cơm chiều họp
mặt đông vui sau một ngày làm việc vất vả; cũng là lúc lớp lớp những đàn cò
trắng đi kiếm ăn xa bay bề tổ trên lũy tre làng cất lên những tiếng kêu rộn rã
như chào tạm biệt nhau, cả như tiếng cò con gọi bố mẹ mừng vui ríu rít, tưởng tượng
như bức tranh quê lung linh chớp sáng trong bản nhạc đồng quê êm đềm. Lũy tre
nhà nào cũng trắng xóa cánh cò, cả làng là một rừng cò, rừng âm thanh náo nhiệt
trong hoàng hôn thanh bình.
Có lần dẫn chúng tôi đi vòng quanh làng, từ miền đất cổ tích
này, vừa đi ông tôi vừa kể rất say sưa, tự hào. Làng ta là một pháo đài bất khả
xâm phạm từ thời cụ kỵ ông bà. Mọi kẻ thù xâm lược không đánh chiếm được làng.
Lũy tre làng kia là lũy thép. Những ao làng nhà nhà thông với nhau bằng những
đường hào kia là phòng tuyến tiến thoái lưỡng nan rất lợi hại khiến quân thù
bao phen khiếp sợ.
Ao Rồng liên thông với ao mọi nhà chạy quanh làng núp dưới
lũy tre ken dày như bức tường thành. Dưới đáy hào cắm chông tre chông sắt dày
đặc. Quanh lũy tre đắp những ụ súng chiến đấu kiên cố, nối với nhau bằng giao
thông hòa, hầm nghỉ ngơi tránh bom đạn và nối với hầm chỉ huy vừa kiên cố vừa
bí mật như trận đồ bát quái, tiến lui, hỗ trợ, yểm hộ nhau liên hoàn nhanh
chóng, thuận lợi. Có những đường giao thông hào thoát hiểm rất bí mật tỏa ra
những cánh đồng làng. Phòng khi hỏa lực chúng quá mạnh, chiếm được làng, ta đã
sẵn vườn không nhà trống, bà con thoát ra tản cư trước, lực lượng chiến đấu cầm
cự bảo vệ dân làng rút an toàn mới rút sau, bảo toàn lực lượng ra trận địa đã
chuẩn bị sẵn ở đồng làng bao vây lại chúng, chờ thời cơ tổng công kích tiêu
diệt giặc giải phóng làng. Đấy là kế hoạch phòng thủ chứ tuyệt nhiên không bao
giờ để chúng chiếm được làng.
Trong 9 năm kháng chiến
đánh giặc Pháp, ông tham gia đội du kích, được dự gần 300 trận càn quét của
địch, chúng đều thua đội du kích làng ta. Làng ta thành làng chiến đấu kiểu
mẫu. Được Cụ Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngợi khen trong Đại hội Thi đua Anh
hùng chiến sĩ Toàn quốc ở chiến khu. Sau này được Nhà nước tuyên dương danh
hiệu cao quý - Làng xã Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bây giờ các cháu thấy đấy, dấu tích lũy tre, hầm hào phòng
tuyến thép của làng kiểu mẫu chống giặc vẫn còn đây.
Ông tôi vắt hai tay ra sau lưng, đi chậm rãi trầm ngâm như
thể đang nhớ lại những kỷ niệm thiêng liêng của một thời trai trẻ "gian
lao mà anh dũng" hăng hái tham gia chiến đấu chống càn giữ làng. Biết kể
lại với các cháu sao đây cho các cháu hiểu để mà tự hào, noi theo?
Bỗng ông tôi dừng lại bên lũy tre, những cây to cây nhỏ ken
dày, những cành những gai đan xen bện xoắn chặt vào nhau, có những thân cây
bánh tẻ cuốn níu lấy nhau giống như những cánh tay đồng đội bám chặt lấy nhau
quanh những ụ súng xưa, tiếp đến là những gốc tre già tạo thành tầng tầng lớp
lớp những gốc tre đủ mọi hình thù kì dị như những con giống ngộ nghĩnh đẹp mắt,
thân quen. Chỉ tay vào đó, ông tôi nhỏ nhẹ như giải thích. Các cháu thấy không?
Tre sống chung thủy với người. Có nhiều tiện ích giúp người từ khi lọt lòng đến
già rồi chết... Sống chết chở che người. Từ đời này đến đời kia "tre già
măng mọc" thành "lũy tre" ngăn bão tố phong ba, giặc dã cho làng
ta trường tồn. Những gộc tre già này tưởng chừng như vô dụng, nhưng không, nhờ
có nó lũy tre mới vững. Đôi khi cũng phải đánh tỉa bớt đi cho măng mọc sinh sôi
nẩy nở. Gộc tre được phơi khô thành củi đun. Tết đến, nhà nào cũng đem luộc
bánh chưng. Gộc tre luộc bánh chưng rền ngon tha hồ để lâu không lại gạo.
Ông cháu tôi đi dạo quanh làng, gặp ai họ cũng chào hỏi thân
mật, kính trọng: Bẩm, Chào cụ Phó, dắt các cháu đi chơi thăm làng ạ! Ông tôi
đều cung kính đáp lại: Dạ, không dám ạ... Các ông bà, hoặc các bác... đi làm
về!.
Có lần, tôi hỏi - Ông ơi, ngày xưa ông làm gì ở làng mà ai
cũng chào là Cụ Phó thế? Ông tôi cười khà khà vui vẻ, ông chỉ làm ruộng, làm
anh tá điền với con trâu đi trước cái cày theo sau, chân lấm tay bùn, bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, chứ có được làm vương tướng gì đâu. Chả là, những
lúc nông nhàn ông học mót được cái nghề đóng cối xay lúa, được bà con quý trọng
gọi là phó cối. Cũng là một chức vị được dân tôn trọng phong cho. Ối nghề cũng
được dân phong như thế, phó mộc (làm nghề thợ mộc), phó ngõa (làm nghề thợ
xây)...
Tôi lại buộc miệng hỏi ông: Sao không phong cho làm trưởng
cối, trưởng mộc, trưởng ngõa... mà chỉ rặt là phó thôi ông? À, mình là dân lao
động thấp cổ bé họng học hành dốt nát được thế là phúc đức lắm đấy các cháu ạ.
Sao dám vượt mặt các quan chức sắc làng xã được. Dân mình là có ý sâu sa lắm
đấy chẳng vừa đâu...