Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

LAN MAN CÙNG MỘC BẢN... Bài: DUY PHI





LAN MAN
CÙNG MỘC BẢN

3050 MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM
16/5/2012 vừa qua được
Unesco chính thức công nhận là 
DI SẢN KÝ ỨC THẾ GIỚI
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.


Đến nay, nước ta đã có ba di sản tư liệu được UNESCO công nhận: bia đá các khoa thi tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, mộc bản Triều Nguyễn (Huế) và mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).







1- Chùa Vĩnh Nghiêm ở đâu? 

   Chùa Vĩnh Nghiêm còn có tên là chùa Đức La (do hai làng: Đức Thành và làng La cổ hợp lại) nay thuộc xã Trí Yên - Yên Dũng - Bắc Giang.  Thời Lý Trần, Đức La thuộc Long Nhãn, sau đổi là Phượng Sơn; thời Lê, Đức La Phượng Nhãn trấn Kinh Bắc. Chùa Vĩnh Nghiêm toạ lạc trên một khu đất khá bằng phẳng, giữa một vùng sơn địa trập trùng, có núi Cô Tiên và núi Đầu Voi- hai ngọn núi với rất nhiều huyền thoại. 
Từ lâu, vùng núi Neo được gọi là núi Phượng Hoàng. Có Phượng Hoàng mới có Phượng Nhãn, tức mắt phượng. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi ghi rõ, Phượng Nhãn, tức vùng đất chỗ hợp lưu sông Thương và sông Lục Nam. Lại có thời, người ta nhìn từ đỉnh núi Nham Biền xuống, Lục Đầu Giang như một con rồng lớn, nên vùng này được coi như mắt rồng - Long Nhãn. Vua Lê Thánh Tông từng vi hành, nghỉ lại tại vùng Long Nhãn, mới có bài thơ Trú ở Long Nhãn: Lịch lịch tam thuỳ cửu đậu lưu/ Chí tương nhân nghĩa lực hành thu…(Vừa trải ba vùng, nghỉ lại thôi/ Đã thu, nhân nghĩa dạ khôn nguôi).
   Từ thành phố Bắc Giang, theo đường bộ đi chừng 18 cây số thì đến chùa Vĩnh Nghiêm. Có một lần, chúng tôi đi đường thuỷ, đi thuyền từ chùa Dền (TP Bắc Giang) chừng 19 ngàn mét thì đến Ngã Ba Nhãn- nơi gặp của sông Thương và sông Lục Nam - ngược sông Lục chừng 3 ngàn mét thì đến bến lên phía đông Vĩnh Nghiêm tự. Đi từ sông lên mới thấy hết sự kỳ thú, mới nhớ ra, cách đây năm bảy thế kỷ đâu đã có xe cộ, đi xa người ta dùng thuyền là chính. Lối chính vào chùa Vĩnh Nghiêm là các bến Thanh Long, Vĩnh Long... Ở đâu, đi bằng đường bộ là chính, chứ nơi đây, suốt dải Lục Đầu Giang, chừng 15 cây số, hhội hè toàn là dùng thuyền đi lại. Thuyền tấp vào cửa đền Vạn Kiếp, thuyền tấp vào đền Gốm (thờ Trần Khánh Dư), thuyền tấp vào chùa Vĩnh Nghiêm... Nhìn suốt dải Lục Đầu, mới thấy hết cái vị trí của Vĩnh Nghiêm là đắc địa, là điểm đầu của một quần thể di tích thiêng liêng, hào hùng, hiếm nơi nào có được.      
   Tương truyền, xưa vua Trần Nhân Tông trên đường du ngoạn, đến Đức La, chon đất dựng chùa. Lời truyền ấy đúng đến đâu khó biết, nhưng ngay từ nhứng năm đầu thế kỷ XIV, vua Trần Nhân Tông đã thường đến đây hành đạo. Có vậy, năm 1304,  mới có sự kiện: Năm Lý Đạo Tái 50 tuổi, chưa vợ, lần ấy theo Trần Nhân Tông về chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) nghe Thiền sư Pháp Loa thuyết giáo, ngài bỗng thấy mình như được tắm trong hào quang của mười phương chư Phật, bèn xin vua cho xuất gia, do khẩn khoản, vua chấp thuận. Lý Đạo Tái có pháp danh là Huyền Quang, sau trở thành ông tổ thứ ba của Trúc Lâm thiền phái. Ba vị tổ của thiền phái Trúc Lâm: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang nhiều lần giáo hoá ở đây, để lại nhiều ân đức nơi đây, nay hàng năm vào những ngày hội chùa, người dân Đức La vẫn có tục rước tượng ba vị tổ ra sông để mộc dục (tắm gội), rồi rước lại, tế lễ. 
   Đời vua sau, Trần Anh Tông, cũng nhiều lần đến Vĩnh Nghiêm (Đức La) lễ Phật, tham thiền học đạo. Nơi vua Trần Minh Tông thường đến đợi vua cha (Anh Tông), tại đất Ổ Cá gần Ngã Ba Nhãn, nay còn đến thờ Trần Minh Tông. 







   2- Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm & Giá trị...  

  

   Vào năm Qúy Sửu - 1313, Thiền sư Pháp Loa đã chọn Vĩnh Nghiêm làm Trung ương Giáo Hội. Là trụ sở của tăng ni cả nước, lại giữa non thanh cảnh tú, Vĩnh Nghiêm trở thành danh lam đệ nhất.  Theo GS Hà Văn Tấn, cho đến năm Khai Hựu thứ I (1329), Vĩnh Nghiêm đã độ được một vạn năm nghìn tăng ni. Không chỉ là ngôi chùa tố hảo, Vĩnh Nghiêm còn là nơi in ấn kinh sách. Ngay đến thời Thiền sư Thích Thanh Hanh (1840- 1936), trụ trì tại Vĩnh Nghiêm này, năm ngài 94 tuổi còn được Hội Việt Nam Phật giáo bầu vào Ban trị sự, được vinh phong làm Thiền gia Pháp chủ. Thiền sư Thích Thanh Hanh, một đời luôn lấy việc giáo hoá tăng ni làm phận sự, ngài chuyên tâm lui tới trường Bác Cổ, sai các môn đồ sao lục các kinh điển qúy báu, về cho khắc ván in để hoằng dương Phật pháp. Hiện nay, trên nhiều mộc bản tại Vĩnh Nghiêm, hiện vẫn còn Lời tựa hoặc Lời bạt của ngài. 3050 mộc bản ở Vĩnh Nghiêm là di sản ký ức của Phật giáo Việt Nam chừng bảy thế kỷ, nhiều năm đây là xưởng in duy nhất, trước khi có sự in ấn hiện đại.      
Tập sách CHỐN TỔ VĨNH NGHIÊM 608 trang (14,5X20,5 cm), do Nguyễn Xuân Cần chủ biên, với sự cộng tác của Nguyễn Huy Hạnh, Nguyễn Hữu Tự, Trần Văn Lạng, Nguyễn Thu Minh, xuất bản - 2005. Trong sách, có gần hai trăm trang viết về mộc bản, trích một số kinh, luận… dịch từ mộc bản. Hiện, 3050 mộc bản được xếp trên 7 kệ. Mộc bản bằng gỗ thị, một loại gỗ mềm, mịn, bền, không cong vênh. Mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2.000 chữ Nôm hoặc chữ Hán. Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 50cm với những chạm khắc hoa văn độc đáo, tinh tế. Các di sản ký ức trên mộc bản chủ yếu là khắc dưới triều Lê Cảnh Hưng và mấy triều vua Nguyễn: Tự Đức, Thành Thái...  Nội dung, gồm ba loại: kinh, luật, luận. Theo thống kê, trong ván khắc đó có 35 kinh sách: Hoa Nghiêm kinh, Di Đà kinh, Quan Thế Âm kinh... Thú nhất là các mộc bản về những bài phú Nôm đời Trần: Cư trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thánh đạo ca của Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên tự đề - Đệ nhị tổ Huyền Quang, Giáo tử phú - Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Yên Tử nhật trình, - Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh, Du Yên Tử sơn nhật trình - Bạch Liên tiểu sĩ... 
   Du Yên Tử sơn nhật trình, do Bách Liên tiểu sĩ soạn, 14 trang in, 264 dòng, thể lục bát, xen vào đó là mười bài thơ luật Đường thất ngôn bát cú. Nhiều bài thơ khá nhuần nhị,  ví dụ:  
Tấm thơm nay đã tới trên đèo
Cảnh sắc thanh tao thú mỹ miều
Sắt sắt non vàng màu bạc thích
Di di rừng bích rặng hoa leo
Vắt sa cầm gậy khoan khoan bước
Bậc đá sườn non nhẫn nhẫn trèo
Chồng chất chân phàm theo dấu thánh
Dẫu mà non nước quản bao nhiêu.
                        (Phùng Thị Mai Anh dịch)
   Đặc biệt, Cư trần lạc đạo phú - một yếu chỉ của Thiền phái Trúc Lâm, tác phẩm bất hủ của Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông.
Cư trần lạc đạo phú gồm 10 hội (chương), in 11 trang trong sách. Trong số 1688 từ (kể cả đầu đề) là chữ Nôm, có tới quá nửa là những chữ cổ, ví dụ: chỉn, xá, tua, lảu, bặc… lại nhiều điển tích. Tôi đã để ra hàng tháng trời để đọc 11 trang bài phú này, các bản dịch các bài giảng thành ra phải đọc đến vài trăm trang, từ Nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn, Lê Mạnh Thát đến các Thiền sư: Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh… Đọc rồi cứ vỡ dần ra. Đã có người mong mỏi có một bản dịch Cư trần lạc đạo phú từ chữ Nôm ra chữ Việt hiện đại. Chắc sẽ không có một bản dịch như thế đạt được tín nhã, nếu ai đó có kỳ công dịch cũng là công dã tràng mà thôi.       
   Ví dụ, hai câu cuối Hội thứ Tám:
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo
Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi dọt lọc.
Ngôn cú: chỉ câu kinh. Chỉn: vẫn, chỉ, còn. Thửa: thay thế cho từ ở trên. Cơ quan: giác quan, tâm trí. Mựa: chớ, đừng. Tám hơi, tức tám gió: * lợi (cầu lợi)* suy (yếu đuối) * huỳ (nói xấu, chế giễu người khác) * dự (thích khen nịnh) * xưng  (nói phao lên) * cơ (đói) * khổ (đắng cay) * lạc (vui thú).  Dọt: nghĩa là đánh, đập vào mình. Lọc: lọc nước, sàng lọc. 
  Nghiã cả hai câu: Học kinh kệ cũng đừng lo ngại, điều quan trọng là không để cho tám gió kia nó chiếm lĩnh mình.
   Nguyên bản hay lắm, dùng ngôn ngữ bây giờ là hỏng. Chỉ cần giải thích chú thích, đọc đi đọc lại sẽ ngộ ra, mới thấy đây là một tác phẩm tinh hoa của Phật học dân tộc.
   Đọc Cư trần lạc đạo phú, GS Hoàng Ngọc Hiến vô cùng sửng sốt thấy hiểu biết của mình về lịch sử dân tộc có những “lỗ hổng” nghiêm trọng… Trong một buổi Trần Nhân Tông khai đường ở chùa Vĩnh Nghiêm, có một thiền sinh hỏi ba câu: Thế nào là Phật? Thế nào là Pháp? Thế nào là Tăng? Cả ba lần, Trần Nhân Tông chỉ có một câu trả lời: “Hiểu theo lối trước là chẳng phải”. Hoàng Ngọc Hiến càng giật mình khi đọc bài kệ - chữ Hán ở cuối:


 MỘT TRANG MỘC BẢN ĐỘC ĐÁO


Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc san hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
       Dịch thơ:
Ở đời vui đạo nhớ  tùy duyên
Thấy đói  ăn ngay, nhọc ngủ liền
Báu sắn trong nhà đừng kiếm nữa
Tâm không trước cảnh hỏi chi Thiền.

     Vui đạo tùy duyên, GS họ Hoàng chợt ngộ ra: “Mọi nguyên lý và tư tưởng dù cao siêu, cơ yếu đến đâu mà tách ra khỏi cái “duyên” níu kéo, nương vịn của những hoàn cảnh, điều kiện sống cụ thể … không tránh khỏi trở thành giáo điều, vô duyên, có khi đó chỉ là “đờm dãi” của ai đó”.
   Những bản khắc in Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông hiện còn trong các kệ bản mộc ở Vĩnh Nghiêm tự.   
   Chùa Vĩnh Nghiêm có gác chuông và một quả chuông lớn. Chuông chùa Vĩnh Nghiêm thường thỉnh vào lúc 5 giờ sáng và 5 giờ chiều.
   Nhớ một chiều, chúng tôi đi thuyền trên Ngã Ba Nhãn, bỗng nghe thấy tiếng chuông chùa Vĩnh Nghiêm mà ngỡ như chiêm bao, mình đang bơi thuyền, lạc vào bến Phong Kiều,  thụ hưởng tiếng chuông ngân nga lơ lửng lúc nửa đêm của Hàn Sơn tự… 
   Nhân Unesco chính thức công nhận là Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản ký ức thế giới, thêm yêu quí Vĩnh Nghiêm. Lại nhớ, bài thơ cổ về Vĩnh Nghiêm, chúng tôi được nghe một ông già chăn trâu bên chùa, đọc cho chép từ mấy chục năm trước:
  

  VĨNH NGHIÊM TỰ

 Vĩnh Nghiêm tùng bách bích vân bình
Tổ pháp lưu truyền nhất đẳng danh
Yên Tử nhật đăng phong mãn diệu
Trúc Lâm tuyền khởi thủy trường minh
Hạ lai môn tự thiên phàm độ
Xuân đáo xứ thiền vạn sắc sinh
Thử địa yên hà tao nhã hứng
Giang biên diểu diểu mộ chung thanh.
  
Dịch thơ:

CHÙA VĨNH NGHIÊM

 Vĩnh Nghiêm tùng bách biếc mây vờn
Chốn Tổ lưu truyền đâu đẹp hơn
Yên Tử rạng ngày hồng rực núi
Trúc Lâm khơi mạch sáng trong nguồn
Hạ sang cửa Phật muôn buồm đậu
Xuân đến xứ Thiền vạn sắc non
Đây đất xưa nay giàu thi hứng
Sông chiều văng vẳng vọng hồi chuông.
                                      Duy Phi dịch 


                           Phủ Lạng Thương 5- 2012
                                              D P 










Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

NHÂN 1/6, CHÙM THƠ THIẾU NHI- QUANG ĐẠI












NV QUANG ĐẠI 
(BÊN CHỒNG SÁCH, ADMIN NHÓM BÚT SÔNG LỤC)& 
NT QUANG HOÀI (ĐỨNG), 
NHÀ GIÁO LƯU VĂN THƯ (ÁO TRẮNG), NHẠC SĨ TẠ QUANG TỐ...  







NHÀ VĂN QUANG ĐẠI 
NHIỀU TÀI
GIỎI MỸ THUẬT (TRANH, TƯỢNG)
ĐÃ XUẤT BẢN TẬP KÝ VÒM TRỜI CHĂN SUI 
LÀM CẢ THƠ THIẾU NHI

ĐTM GIỚI THIỆU CHÙM THƠ 
TRONG TẬP THƠ
CUA BÒ NGANG- QUANG ĐẠI
TÁC GIẢ TỰ MINH HOẠ 



























-----
* Nguồn: NHÓM BÚT SÔNG LỤC



TS NGUYỄN VĂN HOA ĐỌC TẬP THƠ GIỌT NHŨ



 HOÀNG CUNG THAILAND




TỪ BÉ TÔI ĐÃ
YÊU THƠ DUY PHI

  TS NGUYỄN VĂN HOA  

   Tình bạn đồng môn
   sau nửa thế kỷ "tìm" lại được 
   Cảm ơn cố tri Nguyễn Văn Hoa 
   Mong bạn đọc lượng thứ... 
                                  DP 


   “ Giọt nhũ “ là tập thơ thứ 9 của Duy Phi, sách khổ 13  x19 cm , 102 trang, in giấy trắng cao cấp, NXB Hội Nhà văn Việt Nam. Bìa thiết kế trên nền vàng chanh rất thanh cao, bắt mắt.
Sau khi nghiền ngẫm tập thơ này , cảm xúc cá nhân tôi lắng lại những điều dưới đây:

1-  Tôi là độc giả thơ 

Duy Phi, Duy Khoát, Nguyễn Phan Hách … từ hồi học ở Trường cấp 2 Thứa ( cả Nam sông Đuống duy nhất có trường công lập này, nhiều học sinh Hưng Yên cũng sang học). Trên các tờ Báo tường của trường, cái tranh minh họa nay tôi còn nhớ, vẽ cái cánh tay đòn chia lệch khênh đất: một anh thì cười, còn anh kia thì méo xệch cả miệng… Hồi ấy, tôi  học sau lớp nhà thơ Duy Phi.
Vì mưu sinh, tôi đến lại với văn chương rất muộn. Vẫn ghi chép và đọc thơ, trong đó một tác giả tôi ngưỡng mộ từ hồi học sinh cấp 2, đó là nhà thơ Duy Phi. Thơ Duy Phi in trên Báo Văn Nghệ hoặc bất kỳ ở đâu, nếu tôi thấy là đọc ngay! Ngay cả khi tách tỉnh, Duy Phi ở lại Phủ Lạng Thương, thành là người Bắc Giang. Nói vậy, vẫn là Kinh Bắc thôi.
Tôi và nhà thơ chưa hề gặp nhau tay đôi bao giờ. Khi sưu tầm, biên soạn tập Miền quê Kinh Bắc (thơ 1000 năm, cổ và kim, NXB Hội Nhà văn VN), tôi có chọn thơ Duy Phi. Rồi khi đọc cuốn Thơ văn Lý Trần (nhóm Duy Phi, Đặng Tiến Huy, Vũ Huy Ba, Nguyễn Tiến biên soạn, NXB Văn hóa TT – 1999), tôi có viết một bài trên vietvanmoi.com.


Ngấm ngầm tôi vẫn yêu quý Duy Phi, tôi in một tập thơ Sếu đầu đỏ (thơ riêng) là đã tự chán mình lắm rồi!
Thế mà Duy Phi, với tài thơ bẩm sinh, cho ra đời đến 9 tập thơ, thật bái phục. 






2 Giọng điệu Duy Phi qua Giọt nhũ

2.1 Cảm xúc Duy Phi qua Tập thơ trải rộng khắp Việt Nam( nhất là các miền đất có người dân tộc ít người), không gian thơ  mở tới  Thái Lan, Mã lai, Singapore (Tân Gia Ba). Tôi vẫn thấy giọng điệu của thày giáo- nhà thơ Kinh Bắc, khó lẫn với nhà thơ khác ở tính sư phạm chỉnh chu, mực thước trong từng bài thơ. Đó là am tường Hán học, Phật học… Khó có ai có duyên may như Duy Phi, được dậy học ở Chí Linh để thẩm thấu lắng lọng tiếng vọng của mảnh đất  địa linh nhân kiệt này !
Giọt nhũ với các bài thơ đã tích hợp được kỹ thuật làm thơ điêu luyện và các thế mạnh tiềm tàng của Duy Phi.
 Chính vậy đã truyền được cảm xúc của một thày giáo - tâm hồn Kinh Bắc tới độc giả yêu thơ Duy Phi. Họ không bị hụt hẫng, khi gấp sách lại.
Tứ thơ Duy Phi gieo lại trong lòng độc giả.
  2.2  Có nhiều câu thơ, tôi rất thích bởi  sự nhậy cảm tinh tế trong hồn thơ Duy Phi. Xin phép dẫn ra một câu:
    Bờ sương lựa bước e xô vỡ
Những giọt trinh nguyên ngọn cỏ mềm.
                                    ( Bạn tiễn)
   Với tôi, câu thơ như sống lại cả một chuỗi kỷ niệm tuổi thơ “văn minh lúa nước Kinh Bắc” vô vàn thương nhớ!
Qua tập Giọt nhũ, tình yêu của tôi với thơ Duy Phi vẫn nguyên vẹn như hồi học cấp hai cách đây hơn nửa thế kỷ!


Dẫn một chùm thơ trong 
Giọt nhũ  



            TỰ KHÚC


Cây mấy vụ gieo trồng
Vẫn hẹn ngày bói quả
Mái tóc bạc chiều đông
Người tình thành xa lạ.

Nước âm thầm lòng đá
Suối vẫn chưa hiện dòng
Lạc rừng theo lối quạ
Còn mơ màng bóng công.

Đợi giao thừa. Thăm thẳm
Ngọn lửa tự nuôi mình
Nghề đẽo cày giữa chợ
Trông hoài người mắt xanh… 



CHÙA ĐỒNG - YÊN TỬ 

 
TỰ BẠCH
TRƯỚC CỬA THIỀN 


Lên bậc nữa, bậc nữa lên
Tháng ngày sải bước trong miền tiêu dao
Vào động sâu, ngược đỉnh cao
Tìm người hay vẫn lao đao tìm mình ?

Giọng tụng kinh tiếng chày kình
Ta thành lẽo đẽo thiền sinh cổng trời
Tuỳ duyên, đón gió bời bời
Nghe tâm thông ngát, thấu lời trúc xanh

Có gương nào mãi mãi lành 
Ngoạ Vân, gặp Tổ may mình ngộ ra 
Xuống non, thông thống nhũ hoa
Ai vô tâm được cho ta nhận thầy.

Tu khổ hạnh, khó lắm thay
Nhờ em đan giúp cái rây lọc mình*. 

----
* Mượn ý trong Cư trần lạc đạo phú- Trần Nhân Tông. 


TẢN MẠN
Ở THAILAND   

phương Tây ùn ùn du lịch Thái
ta, láng giềng
xem sao
băn khoăn
quên la bàn thế sự
đất nước thờ vua
phía trước? phía sau?

*
người ta tu chỉ mươi năm
đã đắc “tâm” đắc “pháp”
ta tu chợ? tu chùa? 
kìa dịp đón sinh nhật vua, hoa vàng rực
hai bên đường cao tốc
sãi này
thêm một nhánh vàng
vào đại lộ nghinh vua

*
ngàn vạn chim bồ nông,
két mòng, phượng yểng
công viên
bốn phía chẳng lưới vây
quen vị ăn sẵn cấp
quên trời, không bay!

                  Bankok- 2010


THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC: TÌNH YÊU - ĐƠN PHƯƠNG...


MỘT CẢNH Ở CHÙA VĨNH NGHIÊM - BẮC GIANG

    ĐỒNG THỊ CHÚC

Quê: Cao Xá, Tân Yên, Bắc Giang Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp tại Triều Tiên…   Hiện định cư tại Hà Nội.
   Đã xuất bản các tập thơ: Gót chân trần (NXB Thanh Niên- 1992), Lục bát dâng tặng người xưa (NXB Hội Nhà văn, 1- 2012)... 


TÌNH YÊU

Một thời yêu chỉ cầm tay
Mà sao mình cứ đắm say với mình
Chẳng câu thề thốt chung tình
Mà nguyên vẹn mãi dáng hình trong nhau.




KÉO VÓ TRÊN SÔNG THƯƠNG


ĐƠN PHƯƠNG

Cái thời người ấy trong tôi
Một ngày không gặp đứng ngồi không yên
Biết là mình quá vô duyên
Gió đằng lưng cứ ngang nhiên đập vào *
Người dưng ơi khổ làm sao
Càng giơ tay gạt càng dào dạt mong
Ngước trông bảy sắc cầu vồng
Thắm màu người nhạt rực hồng một ta

Đêm đêm những oán trăng già
Chẳng soi cho tỏ tình ta với người
Thế rồi người ấy mù khơi
Thế rồi ta cũng thành người bến xa
Ngày đi qua tháng đi qua
Nỗi xưa chỉ thoáng cơn mưa chợt về.

Cái ngày gặp lại bây giờ
Thấy thương thấy trách dại khờ. Đơn phương.

                                                      

------
Gió sao gió đánh đằng lưng
    Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này (Ca dao).







NGƯỜI XƯA

            Tặng người xưa


Người xưa ánh mắt lung linh
Người xưa cái dáng cái hình mảnh mai
Người xưa mái tóc thật dài
Người xưa đỏ mặt khi ai nhìn mình
Người xưa tình đến chung tình
Đã yêu đổ quán xiêu đình vẫn yêu
Người xưa nết ở phải điều
Nói lời nhỏ nhẹ làm nhiều người thương

 Người xưa đâu quản gió sương
Trong nghèo đói biết tìm đường ấm no
Người xưa không nghĩ đắn đo
Thật tâm chia sẻ chẳng lo đáp đền
Người xưa cũng chẳng thể quên
Lời răn dạy - bậc Thánh hiền ngày xưa.

Bây giờ tìm bóng người xưa
Gặp mênh mông
              chỉ gặp thừa mông mênh…

                                          2003- 2011





Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

THẢ CÁI LIM DIM - THƠ VŨ LẬP - LỜI BÌNH: PHẠM THUẬN THÀNH




NT VŨ LẬP 
   3/2012 đến thăm ĐTM - Bắc Giang   
(hiện đang ở Leipzig - CHLB ĐỨC)



Chút an bình làng quê


Thả cái lim dim

Trưa hè mắc võng bóng cây

Dịu dàng hương nhãn đong đầy tiếng chim
Phù vân ai mải kiếm tìm
Ta về thả cái lim dim cùng diều.

   (Rút từ tập thơ
       Tứ tuyệt Xứ tuyết - VŨ LẬP 
          Nhà xuất bản Văn học - 2012)



LỜI BÌNH CỦA
PHẠM THUẬN THÀNH


"Thả cái lim dim" là bài thơ hay nhất trong tập thơ Xứ Tuyết của nhà thơ Vũ Lập (CHLB Đức) vừa được Nhà Xuất bản Văn học xuất bản tháng 1/2012. Bài thơ được Giải Ba (không có Giải Nhất) trong cuộc thi thơ tứ tuyệt năm 2009, do Tạp chí Kiến thức Ngày nay tổ chức. Xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Phạm Thuận Thành (Bắc Ninh) bình về bài thơ trên. 




Làng quê Hưng Yên 



Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc và lâu đời. Cùng với việc xuất hiện làng trong lịch sử Việt Nam, văn hoá làng cũng ra đời, trở thành nét đặc trưng của văn hoá dân tộc. Trải qua thử thách nghiệt ngã nghìn năm Bắc thuộc, văn hoá Việt không bị hoà tan trong văn hoá Hán chính là do sự bền vững của văn hoá làng sau luỹ tre xanh.
Thời đổi mới mở cửa, làng quê Việt thay đổi khiến con người cũng thay đổi. Sự thay đổi quá nhanh khiến nhiều người tự hỏi liệu cái giá của phát triển có phải là quá đắt? Không ít người không còn trân trọng văn hoá làng được xây nên tự bao đời nữa, mà chỉ lao vào kiếm thật nhiều tiền để đáp ứng lối sống hưởng thụ vật chất không biết thế nào là đủ, là giới hạn. Vậy nên chút an bình làng quê sau đây trở nên thật quý thật hiếm:
   Cái danh cái lợi đã bao năm là mục đích cuộc đời con người. Có danh có lợi thì người ta dễ thoả được những nhu cầu hưởng thụ đời sống vật chất xã hội đổi mới đưa đến. Nhưng cái danh cái lợi như đám mây trôi nổi bất định, lúc thì quờ được một ít, lúc lại bay đi mất. Và người ta lại mải miết đi tìm, mải miết đuổi theo. Vậy mà mấy ai đủ tỉnh táo để nhận ra sự thực cái danh cái lợi chỉ là đám mây nổi trôi.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ trên cũng không ngoại lệ. Thế mà chỉ một lần về quê mắc võng dưới bóng mát cây xanh mà bỗng ngộ ra điều ấy. Nội cái việc “nằm võng” đã giúp cho người ta hoài niệm nhiều điều. Đó là chút an bình thuở nhỏ bà ta mẹ ta đò đưa ru ngủ. Đó là chút an bình nằm thư giãn sau buổi làm việc đồng áng mệt nhọc. Nhưng lần nằm võng này sau nhiều năm mải đi tìm danh lợi lại có ý nghĩa hơn nhiều, phát hiện hơn nhiều: “Dịu dàng hương nhãn đong đầy tiếng chim”. Hương nhãn dịu dàng đã là sự thanh bình lên hương, đằng này “hương nhãn đong đầy tiếng chim” thì lại còn có cả nhạc hoạ vui tươi hơn nhiều. Từ việc ngộ ra sự thanh bình chốn làng quê, nhân vật trữ tình đã chủ động sống cùng sự thanh bình ấy. Đó là hành động “thả cái lim dim” bay theo cánh diều trên cao và bỏ mặc việc tìm kiếm danh lợi cho những ai còn chưa thấy hết giá trị của sự thanh bình làng quê, tức là những giá trị văn hoá truyền thống của làng quê ông cha từng sống, từng xây đắp nên. Chính cái văn hoá làng quê ấy làm nên sự khác biệt, sự riêng biệt của văn hoá Việt trong vố số nền văn minh khác cùng đang hội nhập. 








Cũng cần nói thêm đóng góp về câu chữ mới mẻ của tác giả về “cái lim dim”. Lim dim là cái nhìn co mắt lại cho tinh tường hơn. Thả cái lim dim bay cùng cánh diều là việc thả cái nhìn chưa tinh về danh lợi cho bay theo mây đi, để cái nhìn tinh tường về sự an bình ở lại.
   Bài thơ tứ tuyệt lấy sự đối lập về danh lợi và an bình của đời người ra để nói, trong đó nhấn mạnh hơn về an bình, về phần hồn, tuy ngắn về câu chữ nhưng lại gợi mở được nhiều điều và có sức ám ảnh người đọc. Đó là sức mạnh của thơ ca, và cũng chính là thành công của nhà thơ.
                                                                                      P.T.T 



* Nguồn: Quê hương Online 

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

THƠ VŨ TỪ SƠN, LỜI BÌNH: ĐẶNG VĂN SINH


 TỪ TRÁI:
VŨ TỪ SƠN & DUY PHI
TRONG RỪNG LỘC NINH, BÌNH PHƯỚC - 2011



   THƠ VŨ TỪ SƠN  
LỜI BÌNH: ĐẶNG VĂN SINH


VŨ TỪ SƠN 
 Sinh: 1949. Quê: Minh Đức, Từ Sơn, Bắc Ninh. Hiện sống và viết tại Thành phố Bắc Giang. Hội viên: Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Giang. Tác phẩm chính - Thơ:  Một chặng đường (2006), Hương sắc thiên nhiên (2007), Gửi gió (2008)…
  
  Ta về tìm lại- Vũ Từ Sơn, chùm 11 bài trong tập thơ tứ tuyệt Phận đèn (9 tác giả).


HỎI DÒNG
THƯƠNG

Thương em vượt cạn mấy lần
“Đang đông buổi chợ” tảo tần nắng sương
Trời làm “lũ quét” dòng Thương
Nửa đau ra biển, nửa buồn ngược đâu…

TA VỀ TÌM LẠI

Be sành đựng rượu quán con
Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay
Mùng tơi tím ngắt bàn tay…
Ta về tìm lại cay cay mắt mình.

GỬI GIÓ

Ta gửi gió bài thơ tình chưa cũ
Người yêu thơ giờ bặt lối nơi nào?
Ta gửi gió lời đóa quỳnh héo rũ
Phía trời xa có thấu động cành dao?

KHÁT

Mây lang thang khát chân trời
Gió lang thang khát rong chơi nổi chìm
Lạc bầy chim khát cánh chim
Tôi lang thang khát đi tìm bóng tôi…

THIẾU

Thiếu tiền thì vay
Thiếu danh ta trổ tài
Thiếu quyền ta tu chí
Thiếu vợ đời trắng tay… 





 HOA GẠO


THÁNG BA

Ngủ dưới gốc gạo trước thềm
Chõng tre ngon giấc bặt quên việc đời
Sông nhà nào biết đầy vơi
Sáng ra hoa lửa đỏ trời tháng ba…

KHÔNG ĐỀ

Em là cửa chính ngôi nhà
Con là cửa sổ trổ ra vườn ngoài
Bốn mùa hoa quả đằm sai
Sải chiều tiếp bạn mấy chai rượu làng.
 
ĐÊM SA PA

Gió cõng tiếng cồng lên đỉnh núi
Trăng gùi câu hát tới bản bên
Anh thả tiếng khèn vang rừng vắng
Buông sợi chỉ hồng đến với em.

THÁC DẢI YẾM*

Đương thì trời đất thoả lòng nhau…
Dải yếm bỏ quên, trải dãi dầu
Để lại trần gian nguồn vô tận
Ai người nhân thế rõ nông sâu?!

                                  Mộc Châu, 29- 4- 2011

---
*Thác Dải Yếm thuộc Mộc Châu, Sơn La.


GỬI VỢ

           Cho Hoà

Em nhé! Khôn thiêng về ăn Tết
Với lũ con thơ với mẹ già
Nén nhang anh thắp vòng tha thiết
Mới đấy mà em đã vội xa!


MƯA XUÂN PHỐ THẮNG

Mưa lã chã xập xoè rẻ quạt
Tiết xuân rớt lạnh khách đi đường
Phía em đợi tím màu hoa ngày trước
Tiếng chim reo chợt ấm một mùi hương.  


 

LỜI BÌNH: ĐẶNG VĂN SINH


VŨ TỪ SƠN
TA VỀ TÌM LẠI

Với Vũ Từ Sơn, thơ là những dòng cảm xúc của một hình thái tâm thức mất cân bằng. Trạng thái nghiêng lệch ấy đổ bóng vào thơ tạo nên những cung bậc tình cảm khác nhau như bảng hòa sắc tự nhiên thiên về gam lạnh.
Những bài: "Hỏi dòng Thương", "Ta về tìm lại", "Khát" và "Gửi vợ" có thể xem là tứ tuyệt điển hình của tác giả. Cả bốn bài đều có kiểu lập ý, lập tứ và kỹ năng diễn đạt cùng một phong cách, cùng tiệm cận một hệ quy chiếu. Đó là nỗi đắng cay của sự mất mát. Nỗi đau riêng được ký gửi vào thơ, chuyển thành hình tượng tâm trạng, đồng thời khái quát được cả nỗi đau nhân thế. Những câu: "Đang đông buổi chợ tảo tần nắng sương/ (...) Nửa đau ra biển, nửa buồn ngược đâu...", "Be sành đựng rượu quán con/ Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay", và, "Lạc bầy chim khát cánh chim/ Tôi lang thang khát đi tìm bóng tôi..." đều là những dạng thức diễn tả tâm trạng. Đó không chỉ là một kiểu tâm trạng phiếm định trong mặt phẳng lệch, mà còn là những dòng  thi cảm thổn thức, một mảnh hoài niệm, phiêu diêu trong ký ức thời gian.
Tứ tuyệt Vũ Từ sơn luôn thấp thoáng một hình ảnh "em", cho dù đấy là một dòng Thương trời làm "lũ quét", "một "Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay", một tiếng cồng đêm Sa Pa, hay khi thắp nén nhang gọi hồn người vợ yểu mệnh về nhà ăn tết. Phải chăng, từ nỗi niềm riêng ấy, đã hình thành  dạng bối cảnh thơ, nhất là lục bát tứ tuyệt, luôn bảng lảng một tinh thần hoài niệm, hướng về không gian làng quê quan họ vùng Kinh Bắc ngày xưa. Những hình ảnh liên tưởng "be sành đựng rượu quán con", "mùng tơi tím ngắt", "chõng tre ngon giấc", "dải yếm bỏ quên"... làm không ít tâm trạng người đọc bâng khuâng. 



THÁC DẢI YẾM
MỘC CHÂU - SƠN LA 

Khác với Tô Hoàn, Tân Quảng và Duy Phi, tứ tuyệt Vũ Từ Sơn không nặng về suy tưởng, ít triết lý mà chủ yếu là những dòng tự vấn về thân phận con người . Những thân phận đơn lẻ, nhỏ bé, được diễn tả như những lời tâm sự với chính mình. Thơ  anh không tuyên ngôn chủ nghĩa, không ồn ào trường phái, mà cứ lặng lẽ như mạch ngầm chảy trong lòng đất, rồi đến một lúc hình thành dòng suối mát, hòa với nguồn lớn, đổ vào đại dương thi ca một cách khiêm nhường. Những câu: "Trời làm 'lũ quét' dòng Thương/ Nửa đau ra biển, nửa buồn ngược đâu...", "Be sành đựng rượu quán con/ Bờ tre xõa tóc ru mòn võng đay", "Sông nhà nào biết đầy vơi"/ Sáng ra hoa lửa đỏ trời tháng ba...", "Nén nhang anh thắp vòng thao thiết/ Mới đấy mà em đã vội xa..." có thể xem như những mảnh vỡ tâm hồn được hàn gắn lại sau khi con người được tái sinh qua lửa, nước và ống đồng theo cách nói của truyện cổ tích dân gian Nga.
Có thể nói, tứ tuyệt Vũ Từ Sơn là tứ tuyệt tâm trạng. Hình ảnh trong thơ anh cũng là hình ảnh tâm trạng, một tâm trạng đã đi gần hết vòng tuần hoàn mà tạo hóa bắt thân phận nhà thơ phải vất vả vượt qua trên hành trình đi về "cõi vô cùng". Hình như hiểu được cái "đạo" của thi ca nên tác giả vẫn nhẫn nại gánh số phận trên vai, lầm lũi vượt dốc thời gian...

-----
* In trong Tạp chí Sông Thương, Tháng 5/ 2012