Trích : Chữ chạy, cỡ chữ=20

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non - NGUYỄN TRÃI

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

* ĐỖ QUYÊN - CA NA ĐA ra mắt Trường ca LÒNG HẢI LÝ



            
                                                                                 
                                                            Một cảnh Vancouver  



ĐỖ QUYÊN
          (Vancouver Canađa)

    Nhà thơ Đỗ Quyên đang sống và viết tại Vancouver Canađa - người tâm huyết cùng 369 tác giả Việt Nam với 869 tác phẩm trường ca và thơ dài - vừa xuất bản tại Hà Nội tập trường ca LÒNG HẢI LÝ (gồm 4 trường ca: Lòng hải lý, Đống chữ, Buồn muộn cùng thế kỷ, Bài thơ không thuộc về ai), chừng 300 trang. Bút pháp mới lạ. Tác giả có lời mời các bạn hữu, các nhà thơ, bạn yêu thơ đến dự buổi ra mắt từ 15 g đến 18g 30 ngày 15  - 7 - 2011, tại nhà hàng Goldmalt, 9 Hoàng Cầu, Đống Đa, Hà Nội. Nhà văn VÕ THỊ XUÂN HÀ và Công ty Sách HÀ THẾ tổ chức...
   Về trường ca của Đỗ Quyên, nhà văn Nguyễn Đức Tùng viết: " Đỗ Quyên viết về cuộc sống hàng ngày, tình yêu nam nữ, tình yêu đối với chữ nghĩa, sự hy sinh của người phụ nữ, viết về thời gian, về chính thế hệ của anh, lưu đày viễn xứ. Anh suy nghĩ rất sâu và cẩn trọng về các vấn đề nội tại của thơ ca như thơ viết về thơ, một vấn đề lớn mà ít người chú ý hoặc viết được".

ĐTM giới thiệu một chương trong Trường ca LÒNG HẢI LÝ.


                          LÒNG HẢI LÝ
                                                            Trường ca 


CHƯƠNG BA




Những khi đảo nắng đảo mưa
đảo muốn cựa mình
                                lay khách trọ

Em khuất
Ta đi
Bỏ lại
          những nệm giường
          những bông hoa không thể nào nở được
          những cái hôn cụt đuôi
          và tách café cả cha lẫn mẹ mồ côi

Em có thể đợi
                      miễn đừng níu gọi
Đảo nắng đảo mưa
Những buổi mình hái lá lội rừng
                                      rồi sẽ thành chuyện xưa
Rừng khóc trước khi chúng sinh tận số
Lá salal
               từng giọt lá salal
Tay em bứt lòng anh hứng buộc
Đoạn đời chúng mình lăn theo những vành tang

Quán trọ xây bằng nước khóc của rừng
Rừng thuê mình rải lên nhân loại mộ
Bao nhiêu người chết cho chúng ta đủ sống?
           “Giọt salal này là tiền điện!” – Em bảo                                         
           “Giọt salal sau quà sinh nhật cho con”
           “Giọt cuối cùng em giữ lại in thơ”
Đây
      đảo nắng đảo mưa
Em quay đi
                 không cần ngoái lại
Lông ngỗng chuyện chúng mình
                                                   không mắt em
Rừng có mắt của rừng
                                    từng giọt salal lá
                                                                  giọt salal
Xanh suốt một màu không hết
đường bay ngút trời
là cánh rừng thông biết khóc cho người            

Rừng biết người tội lỗi
Chuông nhà thờ không khỏa lấp cửa tù
Rừng thở dài dưới ánh hoa pháo nổ
Tráng ca vẫy gọi hận thù

Đảo trong khuôn viên rừng biển
khoan dung mà tiên lượng sự tình
Hai ta nay hết tình với đảo
hết hợp đồng với những giọt rừng

Em buồn nghĩ về đảo vắng
Ai người kế mình bạt mưa vượt nắng
Gốc cây già sáu người ôm
Mắt mở trừng từng vết chém

Anh thông điệp lên trời xa
bằng cái nhìn bất tử
Giữa chặng dừng ga nhỏ
để rừng khóc tiếp về ta

Em chẳng quên chùm hoa trắng
nhờ nhờ suốt gốc cây dài
Bứt cánh hoa anh đặt bàn tay
Vết hoa theo em từ đấy

Anh làm mưa làm nắng chặng còn lại
thay đảo mưa nắng chúng mình
Em dễ gặp
                 những-người-đàn-bà-ấy
Họ là em
              khi em nghĩ về anh
Mỗi người đàn bà có một nắng mưa riêng có một đảo riêng trong họ

Anh tiếp tục dựng những quán trọ
Chỉ tội cho tách café sớm muộn mồ côi
Thương những loài hoa phải nụ suốt đời
Anh sẽ tiếp tục

Em đâu thể
                  mở cửa vào như những
lần gió mưa góc hiên nhà
Đảo chờ động đất như anh chờ cửa mở
từ em
         ngón tay

Anh sẽ sớm quên mùi lưng gái trẻ
nhởn nhơ để mặc nắng lùa
Quên người đảo hiền hiền hay hát
khúc ca làm nguội bước hành nhân

Em nếu nhớ điều gì
                                thì nhớ
khuyên lên trời nụ hôn vàng
Nơi dặm dài anh ngưng nghỉ
hóa hiện mặt trời

Anh biết chúng mình có vậy
ra đi mà giữ lại
điều gầy dựng từ giọt rừng thắm lá
vốc cát, cụm sò, con sóng, đụn cây

Em bảo:
             Người đi biển không làm thơ
Anh bảo:
             Người làm thơ đi biển.





* Một loại cây ở đảo Vancouver được dùng làm vòng hoa tang

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

* TRĂM LẺ TÁM TÌNH KHÚC, BÀI 16





        
                      DUY PHI                                                                                              
     GỌI  VÍA
     NGƯỜI ĐANG SỐNG    

                                                

bát cơm quả trứng
bắc dọc chuối làm cầu
cành phan
chiếc sàng
chao vía
rằng
khoắn ơi mà
mà mà khoắn ơi mà
mường Bân tỏi kin cáy tằng khôn
mường Phạ tỏi kin cần tằng dặng
khoắn ơi mà khoắn ơi mà*...


gọi con tim người tình máu trắng
gọi giấc ngủ buông đời thây trôi
gọi lũ gà tranh giun mắc tóc
gọi miếng quả trong họng ngỡ trơn tru
gọi ngai báu trước oan khiên bé họng
gọi vía người sống
gọi thai nhi lưỡng lự
gọi nghìn mắt quáng gà

vía ơi về
về về vía ơi về
mường Mây đòi ăn gà cả lông
mường Trời đòi ăn người còn đứng
vía ơi về vía ơi về...  




 -------
* Phỏng theo một đoạn trong Pụt doòng (dân tộc Tày), do Hoàng Hoá - Bắc Kạn sưu tầm, dịch. Đoạn tiếng Tày, được dịch nghĩa bằng năm dòng in nghiêng cuối bài...


* ĐẾN VỚI FAN - XI - PAN * Thơ DP





                                                                               
    Một tối tháng Ba - 2003, ở Chiềng Trung, Tuần Giáo, Điện Biên , sau khi cùng nắm tay múa xoè, NV TRẦN QUYỂN (thứ 1 từ phải sang) và DUY PHI tôi được các cô gái Thái chúc rượu... Ngon tuyệt !                                                                        Ảnh: Đặng Tiến Huy  





Thơ
DUY PHI


ĐẾN VỚI FAN - XI - PAN 


Đi giữa Tả Van
Vào Giàng Tà Chải
Muốn hỏi thăm đường
Mấy em bá dân tộc Mông
thấy ta là chạy

Trước ngã ba
cầu may chọn lối
Hỏi đá hỏi cây tìm đường
Cầu Mây đây rồi
Chị em người Mông gùi mạ
rướn lưng
Những bó mạ sao ngọn dài
lướt thướt ?  

Rùng rình rùng rình
cầu chao
            vực sâu
                       chóng mặt
Kìa, vách núi trắng re thác bạc
Sườn đá nước luốt
                           sấm vọng ù ù
Ngôn ngữ đá
              Ngôn ngữ sương mù
                                     Ngôn ngữ nước
Đầu óc mình
                  bát quái cổ sơ.
 Sừng sững triệu năm
Ngạo nghễ
trước không gian thời gian

Gầy mòn và sinh trưởng
Bản Mông, Dao, Xa Phó, Hà Nhì
Ruộng bậc thang
Ruộng bậc thang
Những cung đàn
Ngân vang
               sự sống.

Trong tiếng khèn nhặt khoan gọi bạn
Trán núi chập trùng
               Ẩn hiện
Chợt hiểu
Phong cách
Fan- xi- pan ! Fan- xi- pan !

                 Giàng Tà Chải, Sa Pa - 2004

Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2011

THƠ ĐẶNG TIẾN HUY - BẮC GIANG






                                              Nhà văn ĐẶNG TIẾN HUY        
                                                                       

ĐẶNG TIẾN HUY

Quê hương, sống và viết tại Thành phố Bắc Giang. Nguyên Q. Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Giang - Tổng Biên tập Tạp chí Sông Thương. Hội viên: Hội VHNT Bắc Giang, Hội VHNT các DTTS Việt Nam, Hội Nhà báo VN. Đã xuất bản 8 tập thơ, 10 tập văn, biên soạn. Tác giả thường tự cười mình, từng nổi tiếng và … “tai tiếng” với tiểu thuyêt Chủ quán Phù Vân. ĐTM giới thiệu chùm thơ, do Vi Lan sưu tập:   



CHIỀU BIÊN GIỚI

                                   Mến tặng chiến sĩ
                              đồn biên phòng Đồng Đăng

Vó ngựa tuần tra vượt dốc trơn
Chiều về biên giới xuống nhanh hơn
Nhà ai bếp lửa nhoè đêm lạnh
Gió rít sương giăng bản chập chờn!...

THIỀN

Học chú bói cá
tĩnh lặng
để
Kiếm sống.

Học cốc nước đục
đứng im
Để
tinh trong…

Ở đời
ngổn ngang, bộn bề
sự dơ bẩn…

Ngày ngày
nếu
Không học - Thiền
Sao thành người tử tế…

                  29/ 12/ 2007

CHỢT ĐẾN

Chợt thức dậy
Tiếng chim thanh cửa sổ
Chợt bùng lên như lửa
Cây phượng rực rỡ hoa…

Đường phố bỗng sáng loà
Bập bùng dòng sông đỏ
Những gì từ hôm qua
Sớm nay thành cũ cả?...
Tự mình cũng thấy lạ
Chợt buồn
Lại chợt vui
Chợt nghe em gắt gỏng!
Chợt lòng anh bùi ngùi…

Chợt tiếng ve sôi động
Trong gió tàn tro bay…

             Sớm tháng Ba – 1989
                           Đ.T. H





Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

* THƠ BÙI GIÁNG, NGUYỄN KHÔI BÌNH















                                               
        Ảnh chụp tại Đình Bảng, 2002, từ trái sang: NT GIA DŨNG, NT NGUYỄN KHÔI,  DUY PHI tôi, một người thân của gia đình, chị HÈ - bạn đời của NGUYỄN KHÔI.                                     
            
                                                  
 BÙI GIÁNG VỚI
 MẮT BUỒN

                                       (Tặng : Bùi Trần Tự)
        

  Thi sĩ Bùi Giáng (1 trong 3 thi hào đương đại Việt Nam :Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Quang Dũng (Bùi Đình Diệm).Ông sinh năm 1926 tại Quảng Nam (nguyên quán: Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam),từ trần ngày 7-10-1998 tại Tp HCM (Sài Gòn) thọ 72 tuổi.
  Bùi Giáng nổi tiếng về thơ "lục bát cách tân",Ông đã in 7 tập thơ.Ngoài thơ, Bùi Giáng còn viết sách giáo khoa, bình luận Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, Phan Văn Trị...Dịch nhiều tác phẩm Văn , Triết từ tiếng Pháp, tiếng Đức ra Việt ngữ.
  Có ý kiến cho rằng :" Văn học Việt Nam hiện đại có hai "đột phá khẩu" trong ngôn ngữ văn chương là Văn Nguyễn Tuân và Thơ Bùi Giáng " ? Trước cả núi tác phẩm độc đáo "khó đọc" với cái bút pháp "xí lắt léo" có một lối chơi 'cà ngẳng", "cà rỡn" trong thơ cũng như cuộc đời đầy kỳ bí cuồng si của Thi sĩ để hậu thế còn tốn nhiều giấy mực luận bàn về Thơ & Đời Bùi Giáng.
  Cũng như các vị tiền bối Nguyễn Du, Tú Xương...luôn tỏ ra vô cùng thương cảm cái biệt nghiệp "hệ lụy nhân sinh" của "Tấn trò đời" (Balzac) mà xưa nay là cái thói riêng của "giống hữu tình". Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, lớn lên bao nõi ưu phiền. "Con mắt thơ" nhìn đời thấy mọi giá trị đảo lộn. Nếu coi thơ là thế giới ảo, thì ông là Thi sĩ đi giữa hai bờ thực / ảo cuộc đời ở trong vùng Nam Bộ- nam Trung Bộ suốt một thời đảo điên (1945-1975).Năm 1965 ông viết như một lời tự thuật :
   Sơ sinh phát tiết muộn lời
 Tâm hồn như lộc, trang đời như điên
   Muộn lời chậm tiếng đầu tiên
  Liền tâu Thần nữ mối phiền lão phu.
            (Đề từ tập Rong Rêu)
  Thây kệ đời ô trọc, ông "điên" giữa phố thị Sài Gòn. ông là Đười Ươi trong rừng rú còn hơn "lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ". Đó là cái điên của một con người đã hồn nhiên tin rằng : cuộc đời là một cuộc chơi, ngao du cho qua ngày tháng.Thơ Bùi Giáng cho ta hình ảnh một gã Trung Niên Thi Sĩ khờ khạo đến sâu sắc, ngủng ngẳng một cách nghiêm túc, điên một niềm tin trí tuệ rất triết học thành ra VÔ NGÔN, quê mùa . Thơ Bùi Giáng là tiếng lòng không bình yên, ông đã phá chấp một cách Vô thức, đáng yêu. Con người mang tiếng điên ( một dạng cuồng sĩ) cứ nhón chân để rình bắt chính mình (nói như T.V Thiên An).
  Thơ Bùi Giáng là một týp thơ "bụi" , chịu chơi, phóng khoáng của "Bác hai Nam Bộ" (kiểu bác Ba Phi), không ít những câu thơ quý hiếm, lạ lùng... mới bập vào tưởng là Dân gian, đọc ngẫm nghĩ thấy rất Hàn lâm Bác học- đó là một tài thơ đặc biệt trên Thi đàn Việt Nam hậu thế kỷ 20.
  Yêu nhau, ngàn vạn não nường
   Biển dâu lớp lớp mộng trường so le.
  Hiểu như Tản Đà (đời là một giấc mộng) thì ở Bùi Giáng là một cách diễn tả hình tượng thơ thật đọc đáo :vừa truyền thống vừa hiện đại là vậy.

         MẮT BUỒN

    Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
    Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
    Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
    Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ấm trang sử lịch thu triền miên trôi.
                *
   Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
   Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên đời
   Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
                          
BÌNH : Đọc Bùi Giáng là ta du hành lang thang vào cõi thơ, miền tâm thức của ông (cõi miên trường) qua mọi ngõ ngách của mộng, của tình ,của lẽ tử sinh, của nỗi xao xuyến
bàng hoàng của một Trung Niên Thi Sĩ  "ngày xưa ông ấy là Giáo sư, ngày xưa ông ấy làm thơ, ngày xưa ông ấy giầu có lắm, ngày xưa ông ấy là Tô Vũ chăn dê...Ông ấy uống rượu dưới trăng khuya, đọc thơ nơi quán vắng. Đó là một chàng Thi sĩ ôm trái tim cô đơn, lãng tử, tình yêu đơn phương (người chẳng yêu ta, ta cứ yêu),làm bạn với nhiều trăng gió, phấn hương...Cái hình dáng xưa ấy tuy đã bị "bóng mây trời cũ hao mòn" nhưng trong tâm hồn chàng thì không bao giờ chịu cũ ? và đến khi chỉ còn ';Bây giờ riêng đối diện tôi" thì bồng nhiên Người ấy cứ hiện về. Thương người để quá thương thân .
"Gái một con trông mòn con mắt" như trước mặt mà đã tuột khỏi tầm tay...Tất cả chỉ còn trông theo và  tiếc nuối...Người ta đã an bài ngời ngời hạnh phúc ! -còn ta ? "còn hai con mắt khóc người một con" thật là não nuột , thật là chung tình, thật là thơ mộng. thật là khờ khạo...thật là đáng yêu vì tình chỉ đẹp khi tình dang dở kia mà ? !
   Và...chỉ có Trịnh Công Sơn (Nhạc sĩ số 1 Việt Nam) là đủ tài hoa để chia sẻ nỗi đau cùng Thi sĩ "còn hai con mắt khóc người một con / còn hai con mắt một con khóc người/con mắt còn lại nhìn đời là không/ nhìn em hư vô,nhìn em bóng nắng...nhìn em ra đi, lòng em xa vắng..."
   Chao ôi, thơ với nhạc- đôi bạn lòng tri âm tri kỷ để MẮT BUỒN của Bùi Giáng... đưa ta về cội nguồn của nỗi đau  đời đầy ngẫu nhiên và phi lý , nhưng vẫn còn "mai sau hẹn với ban đầu/ chờ nhau ngõ khác ngõ màu nguyên xuân".
                    Góc Thành Nam Hà Nội 21-1-2005
                                     Nguyễn Khôi ..
 







Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

* ĐẶNG VĂN SINH * HÀNH PHƯƠNG NAM (THƠ CHỮ HÁN)







NHÀ VĂN ĐẶNG VĂN SINH

                                                                        



ĐẶNG VĂN SINH


Quê Nam Sách, định cư tại Chí Linh, Hải Dương. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn và 7 cuốn tiểu thuyết : Người đàn bà trong lửa, Vàng máu, Bến lở...  Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp - ngành Ngữ văn, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, giỏi Hán học, trong một chuyến Hành phương Nam, Đặng văn sĩ thành thi sĩ. ĐTM giới thiệu chùm thơ luật Đường của anh với các bản dịch thơ của Duy Phi.  



Quá Đại Linh giang *
                                                                

Thử địa tiền triều tằng huyết chiến
Qua mâu ảnh chiếu ảm sầu vân
Chí kim khách đáo Linh Giang thượng
Vãng sự, hồi đầu ức cổ nhân.
                        
Dịch thơ:      

QUA SÔNG GIANH 

Đất này huyết chiến nghiêng triều trước
Gươm giáo ánh mây cũng sẫm mờ
Khách đến sông Gianh, trên sóng dội
Ngoảnh đầu nhìn lại, nhớ người xưa.

                                         DP                


Cổ thành
Quảng Trị

                    
Quảng Trị hoang thành tuyệt giá cô**
Phong xuy cựu trủng chiểm vi lô
Thùy tri tử sĩ vong hồn hận?
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô"***

Dịch thơ:

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ  

Quảng Trị thành hoang hết giá cô
Gió ru mộ cũ đám lau thưa
Ai hay tử sĩ hồn vương hận
Một tướng nên công vạn nấm mồ!

                                DP  



                    

                                                 Lăng Tự Đức
                                                 (Khiêm lăng)


   Khiêm lăng tiền
   hữu cảm

                                     
"Khiêm cung k‎ý" tại thạch bi đường
Ngự thủ lưu danh nhất đế vương
Nội loạn, Kinh thành nhân ngạ tử
Ngoại xâm, Lục tỉnh lỗ phong cương
"Khiêm cung" xảo ngữ khi thiên địa
"Tự Đức" tự khoa hoặc tứ phương
Thánh trạch ban dân hà hựu tại?
Hồi đầu chỉ kiến kỷ tai ương.

                                    Đ.V.S

    
        Dịch thơ:  

CẢM NGHĨ TRƯỚC KHIÊM LĂNG  

Khiêm cung bia đá dựng cao vời
Nét chữ vua lưu, “đệ nhất” rồi
Nội loạn, Kinh thành dân đói thét
Ngoại xâm, Lục tỉnh giặc “giùm” coi
Khiêm cung, khiêm xạo, gian lừa đất
Tự Đức, tự khoe, dối mị trời
Ân trạch vua ban sao chẳng tới?
Ngoảnh đầu, chỉ thấy họa dân thôi!

                                DUY PHI dịch 

---------
* Đại Linh giang: Sông Gianh
                          ** Giá cô; chim đa đa

                         *** Một câu thơ cổ.